Thursday, October 29, 2009

dòng thơ vũ uyên giang

Nghe bản nhạc TRƯNG VƯƠNG MỘT THỜI KỶ NIỆM do Lê Khắc Bình phổ từ bài thơ TÀ ÁO TRƯNG VƯƠNG của Vũ Uyên Giang xin click vào link dưới đây qua tiếng hát Lê Khắc Bình:

dòng thơ vũ uyên giang

Thursday, October 15, 2009

NHỮNG BÀI THƠ RỜI CHƯA IN

Ở đây góp nhặt được những bài thơ rời thất lạc trong chồng sách vở, có những bài đã cũ và cũng có những bài mới viết, và có những bài ký dưới bút hiệu TÚ PHÉT TIÊN SINH... Xin mời các bạn vào xem:

GIẤC MƠ XUÂN CỦA NGƯỜI TÙ

Có phải Xuân về trên đất xưa?
Sao ta còn ở mãi trong tù?
Ngày qua. Một thoáng buồn hiu hắt
Chợt thấy trào dâng máu hận thù

Nằm đếm thời gian chậm chạp trôi
Nửa manh chiếu rách ẩm hơi người
Bụng sôi, quặn thắt vì cơn đói
Mật đắng chừng như rụng xuống đời

Đôi lúc buồn tình nghĩ vần vơ
Viễn mơ trở lại thuở xa xưa
Chỉ mong được sống dăm ba phút
Dù chết – nhưng còn thở Tự Do

Có phải mùa xuân đến nữa chăng
Thèm nghe tiếng pháo đón mừng xuân
Để cho ai đỏ hồng đôi má
Bên chậu mai vàng rộ tước sân

Đã hết mùa xuân của ước mơ
Năm năm tù! Nghĩ chuyện vu vơ
Cả nước đắm chìm trong địa ngục
Xuân kia có trở lại bao giờ???

VŨ UYÊN GIANG
(Viết ở Trại giam Suối Máu – Xuân 1980)


Ở SIKIEW NHỚ BÀI HÁT XƯA

(Gửi Nhật Ngân)

Giờ đã giao mùa mưa gió bay
Ta lênh đênh lạc đến nơi này
Gặp nhau trong bốn vòng gai sắc
Mừng tủi xôn xao qua nắm tay

Quán vắng. Mưa buồn. Đêm xuống nhanh,
Lòng không sao lạnh phủ xây thành
Đìu hiu trên núi đồi Đông Bắc (1)
Một kiếp phù vân qua mỏng manh

Nhớ khúc nhạc nào nghe thuở xưa (2)
Còn bâng khuâng mãi đến bây giờ
Bỗng dưng đất chuyển, tinh cầu vỡ
Là cả hồn tan theo giấc mơ

Ngày cũ đã buồn hương chiến tranh
Một phen từ giã khói tan tành (2)
Ta cùng ôm mối hờn phiêu bạt
Bỡ ngỡ bên trời. Sao vắng tanh

VŨ UYÊN GIANG
(Viết trong Trại Tị nạn Sikiew Tháng 12 năm 1981 khi gặp Nhật Ngân)
(1) Trại Tị nạn Sikiew nằm ở Đông Bắc Bangkok, Thái Lan
(2) Bài hát Một Mai Giã Từ Vũ Khí của Nhật Ngân

CHÁN CHƯỜNG

Ở đây một nửa linh hồn
Bơ vơ đất lạ, héo hon tủi người
Xót giòng nước mắt trên môi
Chán chường che phủ phận đời lưu vong

VŨ UYÊN GIANG
Chicago, 1983


THƠ GỬI BẠN CŨTặng Lâm Vị Thủy, tác giả Tập thơ "Sao Em Không Về Làm Chim Thành Phố" xuất bản ở Saigon 1960)

Lơ lửng theo mây trôi bốn phương
Đời ta còn một chút hư không
Ngươi ươm mơ với "Chim Thành Phố"
Ta uống mềm môi hát loạn cuồng.

Chữ nghĩa xuôi giòng theo gió bay
Buồn vui tạm bợ được dăm ngày
Quanh ngươi lũ học trò tăm tối
Thơ cũng buồn nên thơ hết hay

Ta một phương. Ngươi ở một phương
Nơi ta ngươi đã gọi thiên đường
Văn chương dăm chữ nghe gàn dở
Nào có ra chi. Nghĩ chán chường

VŨ UYÊN GIANG
Chicago 1983


CHIỀU XUÂN TRÊN PHỐ BOLSA

Chiều xuân trên phố Bolsa
Bỗng dưng một thoáng nhớ nhà bâng khuâng
Dường như lạc giữa Sàigon
Vài cơn gió nhẹ mơn man cánh đào
Nghe trong cười nói xôn xao
Thanh âm vỡ vụn, nghẹn ngào, đắng cay
Lưu vong tủi tháng năm dài
Lang thang đất lạ mơ ngày hồi hương
Hẹn thề một kiếp phong sương
Thù xưa còn nhớ mười phương quay về

VŨ UYÊN GIANG
Little Saigon, Quận Cam – Xuân 1990

HẸN VỀ

Ngày đi lòng đã hẹn về
Đời như giông bão cuốn thề bay xa
Tủi cho một kiếp ngựa què
Tiếc thân phiêu bạt phai nhoà ước mơ
Xứ người, cười nói vu vơ
Tim đau, lòng vẫn nhớ thù hận xưa
Xuôi giòng cơm áo mịt mờ
Đêm đêm thức giấc vẫn ngờ ngục gông

VŨ UYÊN GIANG
Chicago, Illinois 1990

Thơ Hải Đường Cư Sĩ

THU SẦU

Thu lai diệp lạc mãn đình tiền
Nhân sinh tuế nguyệt sự biến thiên
Độc ẩm vô bàng sầu thiên cổ
Nhất túy tỉnh hậu dĩ minh thiên

Dịch nôm :

Thu về lá vàng rơi rụng trước sân
Nhân sinh thế sự đổi xoay vần
Sầu riêng không bạn sầu ly cạn
Chợt tỉnh cơn say giấc mộng vàng

HẢI ĐƯỜNG CƯ SĨ

Thu Sầu cảm tác 1 :

Trước sân rơi cánh lá vàng
Đời người biến đổi xoay vần hoang mang
Một mình uống rượu nghe buồn
Bỗng dưng tỉnh giấc mơ màng còn say
VŨ UYÊN GIANG

Thu Sầu cảm tác 2 :

Sân Thu lay động lá vàng rơi
Năm tháng vần xoay một kiếp người
Uống rượu thêm buồn câu lẻ bạn
Giữa cơn say, tỉnh mộng chơi vơi

VŨ UYÊN GIANG
Charlotte, NC 1994


BÁN QUÁN

Rồi cũng tàn phai nợ bút nghiên
Đời ta trăm vạn nỗi ưu phiền
Làm thân bán quán trong nhà bếp
Lem luốc cuộc đời bên chảo chiên

VŨ UYÊN GIANG
Charlotte, NC Aug.20, 1993



QUÁN KHUYA

Ngổn ngang những ghế cùng bàn
Bóng đèn hiu quạnh hoang mang trong lòng
Đi. Vào. Nghe sũng cung buồn
Rã rời điệu nhạc, chán chường ủ ê
Chung quanh hoang lạnh ê chề
Tâm tư ủ rũ – Tứ bề vắng tanh

VŨ UYÊN GIANG
Charlotte, NC Sept. 8, 1993


BÚT NGHIÊN

Bút nghiên tội nghiệp trăm chiều
Nợ văn chương cũng bay vèo theo mây
Tay chân lem luốc suốt ngày
Bút cùn, tim mỏi – Lòng đầy hoang mang
Người thơ giận dữ thở than
Ngôn từ vụng dại - héo tàn đời ta

VŨ UYÊN GIANG
Charlotte, NC Sept. 1993


QUÁN KHUYA

Nhạc buồn trầm lắng không gian
Quán khuya vắng lặng, ghế bàn trơ trơ
Ngọn đèn hiu hắt ơ thờ
Hàng cây ủ rũ bơ vơ đợi người
Nụ cười khô héo trên môi
Tủi thân lận đận, buồn đời không may
Chợt nghe khoé mắt thoáng cay
Thời gian chậm chạp, tháng ngày trôi đi

VŨ UYÊN GIANG
Charlotte, NC Sept. 12, 1993



QUÁN VẮNG

Quán vắng lòng buồn như nghĩa trang
Ghế bàn xô lệch đứng hai hàng
Ngọn đèn vàng vọt như hiu hắt
Chủ cũng biếng lười chẳng nói năng

Lác đác dăm ba khách đến ăn
Lại cười, lại nói. Chạy lăng xăng
Nồi, ơ, soong, chảo khua xao xác
Người khách rời đi quán lại buồn!

VŨ UYÊN GIANG
Charlotte, NC Sept. 13, 1993

GIÓ THOẢNG MÂY BAY
(Thân tặng anh chị Nguyễn Văn Bạc, New Mexico)

Trăn trở thâu đêm chuyện nước non
Tàn canh thức trắng nghĩ không tròn
Thất phu chí nhỏ lo quanh quẩn
Đau kiếp bại binh, tủi ngập hồn

Bởi lỡ sinh ra lầm thế kỷ (1)
Bọn ta gặp phải lũ gian manh
Bội phản đê hèn quân giặc cướp
Ngục tù ôm hận lệ rơi nhanh

Một lũ nằm vùng cấu kết nhau
Những tên hèn hạ trốn chui đầu
Giở thói lưu manh phường phản bạn
Thói đời hung hiểm nghĩ càng đau

Thôi hãy coi như là bạc phước
Bạc đầu tri kỷ mấy người đây?
Cứ sống cùng thông reo đất rộng
Coi đời như gió thoảng mây bay

VŨ UYÊN GIANG
(Viết ở Albuquerque, New Mexico 27/6/2001
(1)Ý thơ Vũ Hoàng Chương "Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ..."
(2) Ý thơ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu
"Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo"

CHUÁ NÀO CẤM CẢN CON CHIÊN?

Hồng Y Minh Mẫn hẳn chưa điên
Ngặt cái đảng ta nắm giáo quyền
Lắm lúc phát ngôn hơi loạng quạng
Đôi khi hành động quá quàng xiên
Gọi người tị nạn “dân cầu thực”
Muối mặt ăn mày “qũy lạc quyên”
Đảng cấm cờ vàng ba sọc đỏ
Chuá nào cấm cản các con chiên?

HỒ CÔNG TÂM
June 7, 2008


DỐI CHÚA, GẠT DÂN

Dối Chuá, gạt dân – rõ gã điên
Được mang áo đỏ tưởng uy quyền
Vong thân phục vụ quân lừa đảo
Mạt kiếp tôi đòi lũ xỏ xiên
Ngữ ấy xem ra phường đểu giả
Ả kia ngó bộ bọn thuyền quyên
Trò đời cái lưỡi không xương đó
Còn gạt bao năm được lũ chiên?

TÚ PHÉT (TOO FAT) TIÊN SINH
June 8, 2008

SAO ĐÀNH XỬ ÉP?

Ngẫm chuyện nhân tình quá đảo điên
Đi tu chỉ muốn giở uy quyền
Theo đuôi qủy đỏ hòng ăn bả
Chối ngọn cờ vàng – rõ nói xiên
Dạo ấy tha hồ cho chúng đớp
Phen này sức mấy để y quyên!
Cờ vàng khó hiệp thông cờ máu
Minh Mẫn sao đành xử ép chiên!

TRẠNG PHÉT
Philadelphia, June 9, 2008


Nguyễn Xuân Vinh (*)

Tư Lệnh Không Quân một thuở nào
Nhờ tay Đỗ Mậu, Đảng Cần Lao
Thăng quan tiến chức nhanh như gió
Quốc ấn binh phù bỗng sạch sao ?!
Tu nghiệp mong tìm đường đảo ngũ
Xuất dương lánh hoạn lộ ba đào
Già không an phận mơ quyền tước
Theo đám Sơn Đông học lộn nhào

Hồ Công Tâm

[Trích Thi Phẩm VỊNH 108 NHÂN VẬT Lịch Sử VN Hiện Đại]

BÀI HOẠ CỦA TÚ PHÉT (TOO FAT) TIÊN SINH

HÈN TƯỚNG ĐÀO BINH

Hèn tướng, đào binh chạy thuở nào?
Bây giờ còn kể lể công lao
Cúc cung nịnh bợ đầu che lọng
Tận tụy a dua cổ máng sao
Dinh thự thênh thang chim mỏi cánh
Đất đai rộng rãi cá ao đào
Lưu vong vẫn chửa nằm yên phận
Còn cố bon chen muốn té nhào

TÚ PHÉT (TOO FAT) TIÊN SINH
June 10, 2008


LẠI CHUYỆN GIÁM MỤC KHÔNG MUỐN THẤY CỜ VÀNG

Cách nay vài năm, Giám mục Nguyễn Văn Sang của Tỉnh Thái Bình khi đến Queensland, Úc Đại Lợi và ghé lại 1 Trường Việt Ngữ thuộc Cộng đoàn Công Giáo. Khi bước vào trong lớp nhìn thấy có treo cờ vàng ba sọc đỏ thì ông ta khó chịu và nói: “Trường Việt ngữ tại sao lại treo lá cờ này?” Sau đó đã bỏ dở cuộc thăm viếng. Người Linh mục tuyên úy của Cộng đoàn đã yêu cầu tháo không treo cờ và yêu cầu nếu ai chống lại việc tháo cờ thì cứ nghỉ đừng đến dạy. Thầy giáo Hiệu Trưởng và một số giáo viên đã nghỉ để phản đối tiêu cực. Nên có thơ rằng:

Ô này cố đạo Nguyễn Văn Sang!
Vì cớ làm sao lại nói càn?
Tị nạn không mong nhìn sắc đỏ (Tị nạn không mong còn buá đỏ)
Lưu vong chẳng muốn mất màu vàng (Lưu vong chẳng muốn mất cờ vàng)
Chiêu bài bợ đỡ còn che giấu?
Nhãn hiệu tay sai đã rõ ràng
Tu đạo thừa sai phụng vụ Chúa
Đàn chiên rõ mặt gã tên Sang.

TÚ PHÉT (TOO FAT) TIÊN SINH
June 10, 2008


VÕ VĂN KIỆT

Nghe tin Văn Kiệt mới vừa đai (1)
Bọn chúng lau nhau khóc cả bầy
Lẩn thẩn thương vay thằng cướp cạn
Khù khờ khóc mướn gã ăn mày
Sáu Dân lúc trước ôm danh lợi
Văn Kiệt khi nào chịu đổi thay?
Tại chức đương quyền không đối thoại
Cận kề cái chết mị lừa ai?

TÚ PHÉT (TOO FAT) TIÊN SINH
June 11, 2008
(1) Võ Văn Kiệt chết ngày 11/6/2008 tại 1 bệnh viện ở Singapore. (Đai: tiếng Anh die)
Lúc hết còn quyền chức Kiệt mới đòi dân chủ và kêu gọi hoà hợp hoà giải xoá bỏ hận thù


CHUYỆN MẸ CON ĐỜI NAY

Tin thành phố San Hô Thành: một gia đình người Việt có bà mẹ đã thưa con gái ra tòa để đòi tiền.
“Mẹ là nải chuối vườn cau
Bây giờ mẹ nó đưa nhau ra tòa’’

Chuyện chỉ có xảy ra ở Mỹ
Việt di dân ích kỷ như ri
Học đòi theo kiểu Huê Kỳ
Mẹ thưa con gái để đi vòi tiền

Tiền tuy chẳng như vàng, như bạc
Nhưng sao lòng bạc ác bất nhân
Mẹ xưa trời bể thương con
Sao nay một chút tình thương chẳng còn

Chuyện xứ Mẽo ly kỳ hết biết
Mẹ và con kéo lết ra tòa
Chỉ vì tham tiếng đô la
Nên đành bôi mặt để mà kiện nhau

Hỡi ơi sau quãng đời dâu bể
Chút tình người biết kể làm sao ?
Rằng bao nhiêu chuyện tào lao
Cũng không có một chuyện nào như nhau

Mẹ ơi ! biết nói thế nào ?
Tiếng kêu như đã nghẹn ngào trong con.

TÚ PHÉT (TOO FAT) TIÊN SINH
Chicago, Apr.4th, 2008


HỒNG Y DỊ ỨNG CỜ VÀNG

Hồng y đỏ chót bán linh hồn
Khấn nguyện trung thành đảng ác ôn
Chẳng giúp chiên lành vinh Thánh Giá
Lại theo qủy đỏ nhục tông môn
Thừa sai cộng sản khôn che giấu
Đội lốt tông đồ giỏi liếm trôn
Lệnh cấm cờ vàng ngày Đại Hội
Hồng Y quái qủy ló đuôi chồn!

HỒ CÔNG TÂM
June 17, 2008

BÀI HOẠ CỦA TÚ PHÉT (TOO FAT) TIÊN SINH

CÁO CHỒN

Giám mục cam tâm bán xác, hồn
Già không nên nết, lão già ôn
Cúc cung tận tụy lòi ra miệng
Qùy lạy trung thành thụt hậu môn
Tỏ rõ mặt mày quân phản phúc
Phơi bày nhân dáng kẻ lòn trôn
Hồng y cam phận tay sai giặc?
Minh mẫn gì đâu lũ cáo chồn.

TÚ PHÉT TIÊN SINH
June 17, 2008


PHỐ QUẬN NGÀY XƯA

Vắng em phố quận bỗng dưng buồn
Heo hắt hàng cây cũng nhớ thương
Guốc mộc khua trên hè phố vắng
Áo dài bay nhẹ nắng chiều buông

Những thằng lính chiến ở phương xa
Về đóng quân đây dăm tháng qua
Ngày ngày ngồi ngắm em trên phố
Mơ ước trong lòng chợt thiết tha

Phố quận bừng lên rộn rã vui
Nhìn em dạo gót nét tươi cười
Hàng răng đều đặn xinh xinh quá
Chúm chím nụ hồng trên đoá môi

Em đã rời xa phố quận xưa
Đạn thù sát hại một chiều mưa
Bỗng dưng con phố buồn hiu hắt
Hàng quán nằm im dưới nắng trưa

Từ dạo em đi bỏ cuộc chơi
Con đường phố cũ chẳng còn vui
Bụi bay mù mịt nhoà con phố
Đã khiến cho bao kẻ ngậm ngùi

Ta về phố quận buổi chiều tàn
Chân bước đi trong nắng úa vàng
Tìm bóng hình xưa nghe quạnh vắng
Từ ngày chinh chiến khóc ly tan

VŨ UYÊN GIANG
Castro Valley, June 16, 2008



MỸ THO CHIỀU MƯA

Ta ghé Mỹ Tho một buổi chiều
Vĩnh Kim, Long Định quán liêu xiêu
Ngả nghiêng rượu đế mềm môi uống
Gió thổi từng cơn, mưa rất nhiều

Trở lại vườn hoa cũ Lạc Hồng
Bên bờ sông nước sóng mênh mông
Con đò xuôi ngược đi tìm bến
Có chở ai về cho nhớ mong?

Áo trận sờn vai lấm bụi đường
Bến phà Rạch Miễu sáng mù sương
Chiều qua Phụng Hiệp thăm ông đạo (1)
Tối vượt sông Tiền sang Thới Sơn (2)

Vòng Nhỏ ngồi bên ly rượu cay
Hạt mưa lắc rắc ướt vai gầy
Cô gái Mỹ Tho đi yểu điệu
Ai buồn vơ vẩn tối hôm nay

Nhìn những giọt mưa thánh thót rơi
Kiếp giang hồ nghĩ cũng hư đời
Ngược xuôi đơn vị đi muôn hướng
Lính chiến bao giờ được nghỉ ngơi?

VŨ UYÊN GIANG
Castro Valley, June 24, 2008
(1) Ông Đạo Dừa Nguyễn Thành Nam
(2) Cù Lao Thái Sơn bên kia sông Tiền Giang phải đi đò từ Chợ Vồng Nhỏ sang



TRÊN BẾN NINH KIỀU


Trên bến Ninh Kiều một sáng xuân
Dường như cơn gió khẽ thì thầm
Mắt ai đen láy nhìn ngơ ngác
Em gái Cần Thơ nhẹ gót chân

Sông Cổ Chiên trôi, nước lặng lờ
Cái Bè, Chợ Lách thấy bơ vơ
Bên giòng Sông Hậu êm đềm chảy
Vài cánh bèo theo sóng nhấp nhô

Em ở Trà Ôn lạc đến đây
Mải vui xuân mới nắng hây hây
Phương xa lữ khách dừng chân lại
Tiền kiếp hay sao mà ngất ngây

Một sớm nào qua chợ Cái Răng
Chao ôi là nhớ những mùa trăng
Con sông ngã bảy trôi đi mãi
Bên giậu rào thưa ai ngó sang?

Từ giã Cần Thơ dạo cuối xuân
Giòng sông Mang Thít gió thì thầm
Ai về qua bến Ninh Kiều cũ
Có biết rằng ta vẫn nhớ nhung

VŨ UYÊN GIANG
San Jose, June 18, 2008
(Lúc ngồi với anh Nguyễn Văn Quảng Ngãi và Nguyễn Mạnh Kym trong quán Cofee Lovers ở San Jose)


SẼ CHẲNG BAO GIỜ EM HIỂU ĐƯỢC
(Riêng tặng Trần Minh Tú)

Sẽ chẳng bao giờ trong gió sương
Vì đâu ngọn cỏ mãi u buồn
Giang hồ mỏi gót dừng chân bước
Cơn gió vô tình bay bốn phương

Cánh bướm quen đường đi viễn phương
Quen mùi mật ngọt của tơ vương
Tiếng hát mơ hồ trong cổ mộ
Trắng tay nhân thế khóc bên đường

Không có khi nào con nước cạn
Nên giòng sông vẫn nhớ nhung nhau
Thời gian đi mãi vô cùng tận
Gió thổi về đâu lá úa mầu?

Xuân đến, hạ tàn, thu lại qua
Thân ta như chiếc bóng chiều tà
Lênh đênh trên biển đời huyên náo
Danh lợi xem ra cũng nhạt nhoà

Sẽ chẳng bao giờ em hiểu được
Ta về vui với gió cùng trăng
Gió trăng muôn kiếp còn chung thủy
Dẫu có thời gian đã lỡ làng

Từ độ người đời chẳng hiểu nhau
Mong manh như gió thoảng qua mau
Bên cầu chiếc lá khô tan tác
Bay mãi cho trần gian mắt sâu.

VŨ UYÊN GIANG
Castro Valley, June 24, 2008



TÌNH XA
(Riêng tặng Trần Minh Tú)

Nơi đó người em ở rất xa
Ngày đi, ngày đến... tháng ngày qua
Không gian cách biệt bao ngàn dặm?
Ngồi đếm thời gian thuở thái hoà

Anh ở nơi này ôm nhớ mong
Đi về một bóng đợi, chờ, trông
Bao nhiêu héo hắt từng giây phút
Cách trở nghìn trùng biển với sông

Chỉ nhớ nhau thôi cũng thấy vui
Vầng trăng ai nỡ xẻ làm đôi?
Nhớ nhung biền biệt trôi đi mãi
Để lại trong ta nỗi ngậm ngùi

VŨ UYÊN GIANG
Castro Valley, June 23, 2008


TRÊN PHỐ SINGAPORE

Buổi chiều dạo gót Tân Gia Ba
Đường phố xôn xao xứ sở xa
Ta ngồi trong quán nghe xao xuyến
Ánh nắng chiều hôm đổ nhạt nhoà

Kim Yam con phố sạch như lau
Ở đó Chuà xưa ngói đổi màu
Góc phố Chin Swee như lặng lẽ
Nhìn người xuôi ngược sát vai nhau

Xứ sở rộn ràng bao bến cảng
Chung quanh biển cả rộng mênh mông
Eo biển Johore nằm vắng lặng
Singapore nước vẫn xuôi giòng (1)

Ta đứng ngẩn ngơ giữa phố Tàu
Những nhà san sát vút lên cao
Hàng cây che bóng công viên cũ
Ôi những đêm dài hun hút sâu

Ta ở bên bờ ngóng đại dương
Một trời gió lộng đi muôn phương
Nhớ ơi là nhớ về quê cũ
Mỏi mắt trông tìm nẻo cố hương

VŨ UYÊN GIANG
Singapore, 1999
(1) Sông Singapore là thủy lưu chính của xứ Tân Gia Ba


TÀ ÁO TRƯNG VƯƠNG
Tặng Trưng Vương Trần Minh Tú

Này em! Cô bé nhỏ Trưng Vương
Áo trắng tung bay trước cổng trường
Ta đứng đợi hoài trên góc phố
Lá me xao xuyến rụng bên đường

Chân đạp xe theo bóng dáng ai?
Bao nhiêu cây số chặng đường dài
Buổi trưa nắng gắt không e ngại
Chỉ thấy quanh cô vạt áo phai

Áo lụa bay trong gió ngập ngừng
Làm tung tà áo lộ eo thon
Cho ta say đắm ươm hoa mộng
Chết giấc trong hồn nỗi vấn vương

Tà áo ngày xưa nay ở đâu
Người sông Tương vẫn ngóng giang đầu
Đi tìm hình bóng ngày xưa cũ
Chỉ thấy thời gian đã uá màu

Một thoáng mơ hồ vạt áo xưa
Bâng khuâng lá đổ dậu rào thưa
Tìm trong ký ức bao ngày trước
Ngọn gió vô tình chợt thoảng qua

Ôi người em gái nhỏ Trưng Vương
Ta vẫn tìm em khắp phố phường
Bóng chim thăm thẳm bên trời vắng
Có biết lòng ta nặng nhớ thương?

VŨ UYÊN GIANG
Castro Valley, June 26, 2008


MỘT THUỞ BÌNH DƯƠNG

Tặng Trần Minh Tú

Ta về trên quốc lộ 13
Qua xóm Ấp Chanh, lại Ấp Dừa
Nghề gốm Thuận An rôm rả quá
Đàn ai réo rắt chợ Bình Hoà?

Hương Lộc thơm mùi mái tóc ai?
Luạ xanh một dải đến chân trời
Bóng người thấp thoáng Tương Bình Hiệp
Bến Cỏ vương vài ngọn khói bay

Sông Sài gòn uốn khúc quanh co
Chuà Thái Sơn mơ nước ngũ hồ
Chuà Bà Thiên Hậu nhang nghi ngút
Còn giữ muôn đời cổ tích xưa?

Ta đóng quân bên Chùa Hội Khánh
Em đi thoăn thoắt gót sen hồng
Trần gian vẫn giữa cơn hư ảo
Đứng lặng nhìn theo dõi mắt trông

Một thuở Bình Dương lính chiến xa
Đồn điền Dầu Tiếng dưới cơn mưa
Dáng người chợ Búng buồn xao xác
Bến Cát ngày xưa cũng nhạt nhoà

VŨ UYÊN GIANG
Castro Valley, June 27, 2008


NHƯ NỖI HOÀI MONG

Tặng Minh Tú

Cổ tích nào xưa cho nhớ mong
Một vừng sao sáng phiá trời đông
Cho ta sống lại thời trai trẻ
Hoá kiếp thành mây bay bốn phương

Em một khung trời xa quá xa
Cánh bằng diệu vợi tháng ngày qua
Chim bay mỏi cánh mù căn cứ
Ta tận trời tây cũng xót xa

Có phải tiền căn mà ghé lại
Tìm nhau trong một thoáng phôi pha
Kiếp đời biệt xứ buồn hiu hắt
Ai đợi chờ ai ở lối xưa?

Sao sáng trên trời sáng một phương
Thân ta tưởng đã lạc trên đường
Giang tay tìm kiếm bao hoài vọng
Dâu bể cuộc đời ôi gió sương

Bỗng gặp người em ở chốn này
Như trong mưa bão mịt mù bay
Ta đang vui bước trong hư ảo
Tiền kiếp cho ta gặp lại đây ?

Như nỗi tương tư ngập cõi lòng
Gửi về nơi đó chốn xa xăm
Ước mơ thành gió mùa sao sáng
Bay tới bên em thoả nhớ nhung

VŨ UYÊN GIANG
Castro Valley – Đêm sáng sao 6/28/08


HOA TÌNH NỞ MUỘN
Tặng Minh Tú

Em đến bên đời ta tối qua
Áo xiêm hờ hững thoảng hương hoa
Trâm cài lược giắt, thân ngà ngọc
Quấn qúyt bên ta dải luạ là

Gió khẽ vờn trên những mắt môi
Bâng khuâng én lượn đoá sen tươi
Trần gian bát ngát thời hoa mộng
Bao nụ tình yêu cũng gọi mời

Hoa đã vì ai thơm ngát hương
Cánh rơi xao xuyến ngập ven đường
Mải vui duyên mới vì ong bướm
Chất ngất trong lòng nỗi nhớ thương

Hương tình nở muộn lúc vào thu
Trời đất một phen gió mịt mù
Lãng đãng men say duyên buổi ấy
Ta về ôm gối mộng nghìn thu

Em đến bên đời ta rất nhanh
Khiến hồn xao động dưới trăng thanh
Chìm trong cơn mộng du từ đấy
Tan biến đời ta ở khúc quanh

Tiền kiếp nào đưa em đến đây
Ta về vui với gió thu gầy
Tìm trên cao một vì tinh tú
Chìm đắm muôn đời giấc ngủ say

VŨ UYÊN GIANG
Castro Valley, July 4th, 2008


CHIỀU TRÊN BIỂN VẮNG
Tặng Trần Minh Tú

Chiều trên biển vắng một mình ta
Ánh nắng hoàng hôn bỗng nhạt nhoà
Bãi cát cô đơn trong gió nhẹ
Mình ai hờ hững nỗi niềm xa?

Đếm bước chân trên đám lá khô
Lòng ta chừng như đã mơ hồ
Phương xa em ở sao mòn mỏi
Ta nhớ nhung theo sóng nhấp nhô

Chiều trên biển vắng nắng chiều trôi
Lòng ta sao bỗng nhớ chơi vơi
Bóng hình Minh Tú nơi xa tắp
Nỗi nhớ trong ta cũng ngậm ngùi

Thương quá người yêu ở chốn xa
Biển chiều hiu hắt thoáng mây qua
Mây ơi nhắn gửi về nơi đó
Một chút lòng ta vẫn thiết tha

Em ạ! Bao giờ ta gặp nhau
Một trời thương nhớ chẳng phai màu
Đôi ta hạnh phúc trong tình ái
Mới biết tình yêu rất nhiệm mầu

VŨ UYÊN GIANG
Sacramento, July 5th, 2008


NHỮNG THOÁNG MONG MANH

Tặng Minh Tú thương yêu của anh

Chiếc bóng buồn tênh ta ở đây
Chiều đi thầm đếm tuổi hao gầy
Chuỗi sầu cô quạnh mờ năm tháng
Hồn vỡ tan trong giọt rượu cay

Hoang vắng đời trôi theo gió bay
Bâng quơ nhìn mây trắng mơ ngày
Vàng tay một thoáng buồn heo hắt
Ta vẫn chờ ai tim quắt quay

Người đến cho hồn ta ngất ngây
Hồi sinh một kiếp ở phương này
Mang theo hình bóng em trong mộng
Nhìn đóa môi cười ta đắm say

Đã gặp em trong mộng tối nay
Viễn mơ ao ước dưới trăng gầy
Nuôi bao ước vọng cho ngày mới
Chờ đón tương lai ta đắp xây

Mòn mỏi chờ nhau bao phút giây
Quanh ta như có gió heo may
Phương xa em đợi trong chiều vắng
Ta ước mơ thành mây trắng bay

VŨ UYÊN GIANG
Chiều Castro Valley mong chờ July 5, 2008

TRÁNG SĨ

Tráng sĩ hề mềm môi rượu cay
Bao năm mài kiếm dưới trăng gầy
Thù trả chưa xong đầu đã bạc
Nỗi buồn sâu kín tới hôm nay

Ánh trăng bàng bạc ánh trăng loang
Khép nép xiêm y cung Quảng hàn
Chén rượu quan hà chưa kịp uống
Đau lòng cố quốc vẫn mang mang

Cuộc chiến tàn sao nghe xót xa
Làm thân bại trận tủi đời ta
Tráng sĩ bó tay nhìn thế sự
Ngậm ngùi thân hổ nhớ rừng xưa

Sầu hận mang theo đến cuối đời
Rượu cay uống mãi chẳng mềm môi
Thấp cao nghiêng ngả cơn say tỉnh
Tráng sĩ ngày xưa đã hết thời

VŨ UYÊN GIANG
Castro Valley, July 10, 2008


KIẾM CUNG

Tráng sĩ hề vai mang kiếm cung
Túi thơ, bầu rượu nét ngang tàng
Tuốt gươm trừ bạo thời tao loạn
Khiếp đởm kinh hồn lũ sói lang

Đất khách cờ tàn nợ áo cơm
Còng lưng vất vả, kiếm cung cùn
Đêm nằm tủi nhục thân phiêu bạt
Thầm tiếc bao đêm thuở vẫy vùng

Mái tóc bạc phơ nhớ thuở xưa
Tung hoành trận mạc chiến trường xa
Nhung y bạc phếch màu sương gió
Hào khí còn đâu kiếp ngựa già?

Cung kiếm xưa đành hổ thẹn thôi
Chong đèn tiếc nuối thuở xa xôi
Giòng lệ lăn dài trên khoé mắt
Đêm đêm thầm tiếc tuổi đôi mươi.

VŨ UYÊN GIANG
Castro Valley, July 10, 2008


TRÊN CẦU GOLDEN GATE

Riêng tặng Minh Tú yêu dấu của anh

Gió lộng trên cầu, giòng nước xanh
Đôi ta dìu bước, nắng hanh hanh
Con tim hạnh phúc hoa đua nở
Trời đất dường như ghen với mình

Từng gót chân đi rộn rã vui
Chao ơi anh thấy bỗng bồi hồi
Bao nhiêu hạnh phúc thần tiên ấy
Là lúc hai ta đẹp lứa đôi

Mộng ước chúng mình mãi có nhau
Tình yêu thơm ngát đến mai sau
Anh đưa em đến vùng hoa mộng
Trên đỉnh yêu đương hai mái đầu

Em ạ! Anh yêu em mãi thôi
Tình yêu mật ngọt đã lên ngôi
Muôn đời hạnh phúc tưng bừng nở
Hai trái tim yêu vẫn có đôi

VỦ UYÊN GIANG
San Francisco, July 16, 2008

CHIỀU SAN FRANCISCO

Riêng tặng Minh Tú dấu yêu

Nắng nhẹ trên đường phố dốc cao
Đôi tim cùng nhịp đập bên nhau
Đường lên, đường xuống sao thăm thẳm
Níu lấy tay anh, mắt nhắm sâu

Phố xá tưng bừng, phố xá vui
Bên anh lòng cũng chợt bồi hồi
Bao nhiêu hạnh phúc nghìn yêu dấu
Là lúc tình yêu rộn tiếng cười

Anh sẽ vì em yêu mãi hoài
Em yêu Minh Tú của anh ơi!
Một trời hạnh phúc bên người mộng
Và thấy tình yêu đẹp mãi thôi

Niềm vui trọn vẹn ở trong tay
Từng bước chân ta đến chốn này
Anh về nhung nhớ muôn ngàn kiếp
Phương đó em ơi! Em có hay?

VỦ UYÊN GIANG
San Francisco, July 16, 2008

TÀ ÁO NGÀY XƯA

Tặng Minh Tú

Tà áo em bay trước cổng trường
Hàng me rợp bóng thuở Trưng Vương
Áo bay trong nắng chiều ươm gió
Hồn bỗng nôn nao đến lạ thường

Bên Thảo Cầm Viên rợp lá xanh
Áo ai trắng quá bước đi nhanh
Ôm nghiêng tập vở, vui chân sáo
Chìm đắm hồn ai giấc mộng lành

Áo trắng học trò thuở rất xưa
Làm tim xao xuyến đến bây giờ
Vạt áo ai bay trong nắng sớm?
Anh về dệt mãi những vần thơ

Ôi bước chân son thuở học trò
Đỏ cành phượng vỹ nhớ người xưa
Sân trường vắng lặng, cây chờ đợi
Tan tác hoa bay nẻo rất xa

VỦ UYÊNN GIANG
Castro Valley, July 22, 2008

THÁNG TƯ ÔM HẬN

Nghe lệnh bàn giao lệ ứa trào
Con tim tan vỡ, tủi làm sao?
Thương bao chiến hữu phơi xương trắng
Tiếc những anh em đổ máu đào
Giặc cộng cuồng ngông rình phía trước
Đồng minh bội phản lén đâm sau
Tháng Tư năm ấy đành buông súng
Người lính già ôm mối hận đau.

VŨ UYÊN GIANG
Kathleen, GA - 2009

Tập thơ CHIẾN TRƯỜNG XƯA của Vũ Uyên Giang - Phần 3

CHIỀU TRÊN XỨ NGƯỜI
(Nhật Ngân phổ nhạc)



Những giọt nắng đã ngả màu cỏ úa
Phủ đời ta trên xứ lạ quê xa
Nước mắt nào vừa nghẹn đắng trên môi
Bỗng chợt tắt khi hồn ta dãy chết

Một mình ta ôm nỗi buồn trơ trọi
Phố đông vui như mở hội ngày xuân
Chân bước đi lòng vẫn mãi bâng khuâng
Sấu trăm mối nghĩa trang hồn một cõi

Quãng đời ta, ôi! Chuỗi dài xa lạ
Sống lưu đầy trong biển cả hoang vu
Ta bơ vơ phiêu bạt giữa sa mù
Nghe trống vắng âm u như đáy mộ

Ta nhớ em nắng quái chiều quay quắt
Mãi u buồn từ một thuở xa nhau
Giải sông Ngân ta bỡ ngỡ bân cầu
Chờ Chức Nữ xây thành sầu hắt hiu

VŨ UYÊN GIANG
Bangkok 1982

TRÊN PHỐ BANGKOK

Lang thang trên đất xứ người
Thailand chân bước lạc loài tha hương
Loanh quanh cũng vẫn phố phường
Dòng xe như nước trên đường ngược xuôi
Nhìn nền kinh tế nước ngoài
Bỗng nghe một thoáng ngậm ngùi thương quê
Cộng quân cai trị ê chề
Tập trung cướp sạch, gom về bắc phương
Đánh tư sản, triệt mọi đường
Ngăn sông cấm chợ thảm thương dân tình
Khiến cho đời sống điêu linh
Tự do mất hết phải đành ra đi
Quê hương giã biệt sinh ly
Đánh đổi sinh mạng chỉ vì tự do
Biển kia hung hiểm sóng to
Bao nhiêu tàu lớn làm ngơ không nhìn
Trăm ngàn thân xác đắm chìm
Vùi thây biển dữ vẫn tìm bến mơ
Đường hầm cuối nẻo mong chờ
Trại giam đất Thái vật vờ xác thân

VŨ UYÊN GIANG
Trên đường phố Bangkok tháng 1/1982 nghĩ đến đồng bào tị nạn Việt Nam còn đang bị giam giữ ở Sikiew Detention Camp



XUÂN TỨ


“Thảo sắc thanh thanh, liễu sắc hoàng.
Liễu hoa lịch loạn, lý hoa hương
Đông phong bất vị xuy sầu khứ.
Xuân nhật thiên năng nhạ hận trường”
(Thơ Đường của Giả Chí)


Dịch:


Ý XUÂN

Cỏ vẫn màu xanh, liễu vẫn vàng
Lý, đào ẻo lả ngạt ngào hương
Gió đông chẳng thể xua phiền muộn
Xuân đến cho lòng thêm nhớ thuơng.

(Vũ Uyên Giang) 1992



QUỲNH HOA

Tọa khán quỳnh hoa khai
Bạch, nhất phiến trang đài
Hoa diện như châu ngọc
Hương tỏa trinh nguyên phai


Ngồi xem hoa quỳnh nở
Một màu trắng lung linh
Như mặt hoa hớn hở
Phai nhạt chút hương trinh

VŨ UYÊN GIANG
Charlotte, NC 1999


BỐN MÙA

Xuân

Xuân tươi hé nụ đầu cành
Gió xuân lay động lộc xanh trổ mầm
Ta hồi sinh kiếp trăm năm
Nhìn em xinh xắn ta thầm ươm mơ

Hạ

Hạ buồn giọt nắng lung linh
Em ngồi tựa cửa một mình mộng mơ
Ta về dệt những vần thơ
Gửi theo mây gió bao tờ thư xanh.

Thu

Vàng thu bay kìn không gian
Ta nghe trong gió tiền căn lại gần
Em đi bước khẽ âm thầm
Lệ rơi như vết lăn trầm mong manh

Đông

Mênh mông tuyết phủ lưng đồi
Kiếp tha hương cũng bồi hồi chốn xa
Nhớ nhau lòng bỗng nhạt nhòa
Trong ta như có chan hòa lệ rơi!

VŨ UYÊN GIANG
Chicago, 17 tháng 11 năm 1991



MỘT THOÁNG MÙA XUÂN Ở XỨ NGƯỜI


Đào hoa hé nụ đón mừng xuân
Đôi bướm tung tăng giữa lá cành
Chim cũng họp đàn đua tiếng hót
Dập dìu hè phố bóng giai nhân

Hàng quán muôn màu rộn rã vui
Bâng khuâng, lữ khách chợt bồi hồi
Nghe trong buồn tủi đời vong quốc
Chạnh nhớ quê xa thoáng ngậm ngùi

Một thoáng mùa xuân ở xứ người
Trong lòng hiu quạnh nỗi đơn côi
Bơ vơ lạc lõng trên đường phố
Đã thấy trên môi héo nụ cười.

VŨ UYÊN GIANG
Chinatown San Francisco, CA Xuân 1990


Kỷ niệm Văn nghệ sĩ, Ký giả và Thân hữu:

VŨ UYÊN GIANG: KẺ MÀI GƯƠM RA MỰC

• PHƯƠNG TRIỀU

Nghiêng vai trút nợ phong trần
Sao chân vấp lại mấy tầng oan khiên
Mưa nào qua ngọn biến thiên
Cho ta mọc lại tóc triền miên xanh?
Vội về cho kịp đi nhanh
Vội đi nên lại loanh quanh chẳng về!...
(6 câu thơ Phương Triều tặng Vũ Uyên Giang, trên đường đi từ North Carolina đến Georgia, ngày 7 tháng 1 - 2003)

TRÊN ĐƯỜNG BIÊN GIỚI

Cho dầu đặt mình vào vị trí một công dân của bất cứ quốc gia nào trên thế giới, đọc đoạn văn sau đây của Vũ Uyên Giang, ta vẫn có ngay ý niệm về tình cảm của đồng bào Miền Nam Việt Nam đối với những quân nhân thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa:
... Chiều 29 Tết, Hiếu Voi và một số anh em thuộc đội 18 của Thượng sĩ già Nguyễn Quang Quýnh, Phòng 2 Tiểu khu Phước Long, đã nhận được nhiệm vụ theo Hậu Cần ra chợ Biên Hòa tải hàng về ăn Tết. Bà con buôn bán ở chợ khi biết đám người ăn mặc rách rưới đang khuân vác hàng là Sĩ quan cải tạo liền bảo nhau “phát động căm thù”; họ ùn ùn kéo nhau đến ném vào những tên “ác ôn có nhiều nợ máu với nhân dân” thôi thì đủ mọi loại: bánh chưng, bánh tét, mứt, kẹo, trà, sữa, đường, thuốc lá v.v... Nhiều người còn dúi cả tiền vào tay những người tù, nhưng các anh không dám nhận vì biết đây là tiền mồ hôi nước mắt lao động chật vật của đồng bào. Trái với sự tuyên truyền bịp bợm của cộng sản:
“Đảng và nhà nước khoan hồng nhân đạo, tạo điều kiện cho các anh ở lại Trại để học tập cải tạo; vì nhân dân bên ngoài đã xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội nên khi gặp các anh, họ sẽ phát động căm thù ném đá vào các anh thì làm sao chúng tôi bảo vệ được? Đảng phải giữ các anh là để bảo vệ an ninh cho các anh...”.
Cái tình cảm của dân chúng Miền Nam dành cho những anh em cải tạo nó bao la như biển rộng mà các anh đã gặp trên khắp mọi nơi. Nhân dân Miền Nam lúc nào cũng dành tình thương mến sâu đậm đối với những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa; nhất là trong hoàn cảnh lao tù; nên bất kỳ ở đâu, khi người tù đi ra ngoài, gặp được dân chúng là y như rằng sẽ được họ tiếp tế đủ mọi thứ theo khả năng của từng nhóm người. Có lẽ đây là một cách họ ngầm cảm ơn sự hy sinh cao cả của anh em khi sả thân phục vụ đất nước bảo vệ sinh mạng và tài sản cho chính họ, nay sa cơ thất thế trong bàn tay bạo tàn của cộng sản, họ tìm cách ngầm trả ơn; nhưng cũng có thể chỉ vì lòng thương cảm cho kẻ thất thế cá chậu chim lồng mà ra tay cứu giúp. Dù sao chăng nữa tình cảm cao quý ấy cũng làm ấm lòng những người tù...
(Trên Đường Biên Giới – các trang 78, 79)
Qua đoạn văn mang tính chất trung thực của loại bút ký của nhà văn nhà báo Vũ Uyên Giang trích trên đây, chúng ta có thể dễ dàng hiểu tại sao, Quân Cán Chính và các thành phần dân cử của Việt Nam Cộng Hòa bị đày đọa khốn khổ trong lao tù cộng sản từ Nam ra Bắc bao nhiêu năm, vẫn giữ vững tinh thần cho tới ngày về. Chúng ta cũng dễ dàng hiểu tại sao, tính đến nay -năm 2004- nghĩa là sau ngót 29 năm cưỡng chiếm Miền Nam, cộng sản vẫn chưa thu phục được lòng dân Miền Nam.
Hai lần tôi đọc lại “Trên Đường Biên Giới” của Vũ Uyên Giang, do Văn Tuyển xuất bản năm 2000 tại Hoa Kỳ. Đây là một tập bút ký giá trị, nhưng hình như Vũ không để ý tới chuyện quảng cáo tác phẩm của mình. Nếu không ai nhắc thì anh cũng chẳng nhắc tới. Giống như trường hợp Hoàng Trúc Ly. Bao nhiêu bài thơ tuyệt tác của Hoàng Trúc Ly hầu hết đã thất lạc, thậm chí bạn bè thân cũng chẳng ai có một bức ảnh nào của ông.
Vũ Uyên Giang tên thật Nguyễn Quang Vinh, nguyên ký giả các nhựt báo Miền Nam (Chủ nhiệm: Trần Đình Thân) và Hoà Bình (Chủ nhiệm: Linh Mục Trần Du) trước 1975; nguyên sĩ quan ngành Quân Báo, giải ngũ tháng 1-1973; nhân viên Tòa Đại sứ Hoa Kỳ tại Sàigòn (1973-1975); bị bắt đi cải tạo từ 1975 – 1981. Vượt biển tìm tự do tới Thái Lan 1981, nhân viên Tòa Đại sứ Hoa Kỳ tại Bangkok, Thailand (1981-1983).
Khi định cư tại Hoa Kỳ: Sinh viên Trường Đại học Cộng đồng Wilbur Wright College tại Chicago, Illinois (1983-1986); Chủ bút Chicago Việt Báo (1986-1987); Chủ nhiệm kiêm Chủ bút nguyệt san Thời Việt tại Chicago (1987-1992); Chủ nhân cơ sở thương mại An Hòa Inc. tại Charlotte, North Carolina (từ 1993); Chủ nhiệm kiêm Chủ bút nguyệt san Đất Sống, xuất bản tại North Carolina.
Cùng một tác giả:
-Đi Trên Đỉnh Buồn (Tập truyện 1971 – Việt Nam)
- Thời Hoa Niên (truyện dài thiếu nhi viết hàng ngày trên nhựt báo Hòa Bình 1967, bản thảo đã bị mất)
Sẽ xuất bản:
- Tuyển Tập Thơ Văn
- Vẫn Bền Gan Thà Về Đất Mẹ (Truyện dài)
“Trên Đường Biên Giới” gồm một số truyện mang tính chất bút ký, hồi ký vì những sự kiện và sự việc trong truyện đều có thật sau tháng Tư đen 75. Tác giả kể lại những kỷ niệm trong tù với nhà văn (đã quá cố) Dương Hùng Cường, với Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu (tác giả bức tượng Thương Tiếc đặt tại Nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa); kỷ niệm với thi sĩ Bùi Giáng; những chuyện xảy ra năm 1982 tại vùng biên giới Thái - Miên Aranya Prathet (trường hợp phi công Lý Tống bị giam giữ tại nhà tù Aran); thời gian đầu định cư tại Thành phố gió Chicago.
Đặc biệt có một bài viết mang tính cách văn học, tựa đề “Nguyễn Bính: Từ Một Nhà Thơ Tình Lãng Mạn Đến Một Kẻ Đội Đèn”.
Sau khi dẫn chứng một số bài thơ của Nguyễn Bính, Vũ Uyên Giang viết:
Giữa các bài thơ tình tứ mộc mạc của thời điểm 1937 – 1942 và những bài thơ sặc mùi tuyên truyền, khẩu hiệu của Nguyễn Bính như ta đã thấy qua mấy bài tiêu biểu nêu trên là hai thái cực đối nghịch. Những bài thơ nhẹ nhàng, nên thơ với ngôn từ bình dị của thôn quê đã biến mất. Người thơ với những thi phẩm dễ thương len nhẹ vào hồn người đọc một nỗi buồn man mác, một cảm giác ngây ngây say đắm đã không còn; đã chết hẳn từ sau khi Nguyễn Bính đứng trước lá cờ đỏ búa liềm để tuyên thệ kết nạp làm đảng viên đảng cộng sản. Chỉ còn lại một anh cán bộ tuyên truyền Nguyễn Bính, công cụ của đảng, của chế độ chỉ biết nhắm mắt sáng tác theo toa đặt hàng của đảng, theo chỉ thị của đảng để phục vụ mưu đồ, toan tính của đảng...
(Trên Đường Biên Giới – trang 153)



Vũ Uyên Giang còn là một nhà thơ. Anh làm thơ như một đóng góp vào cuộc rong chơi. Tuy nhiên hơi thơ của anh rất mạnh. Ta thử đọc:


XUÂN Ở LONG GIAO
(Tặng bạn tôi Dương Hùng Cường)

Heo hút đồi cao bụi phủ mờ
Những thân còm cõi dáng chơ vơ
Bốn vòng gai sắc như dao nhọn
Đâm suốt hồn ai nhát hững hờ?

Đã mấy mùa xuân trong đớn đau
Cao su vàng lá úa u sầu
Bọn ta chung kiếp tù tăm tối
Ngày tháng chừng trôi qua rất lâu.

Từ đáy ngục sâu gặp cố tri
Cầm tay chẳng biết nói năng chi
Rưng rưng khóe mắt đôi dòng lệ
Tủi hận vương đầy trên lối đi.

Cùng đón xuân sang giữa ngục tù
Chẳng trà, chẳng bánh, chẳng hạt dưa
Uống ly nước lạnh thay men rượu
Rồi cũng rền vang mẩu chuyện xưa.

(VŨ UYÊN GIANG – Long Giao Xuân Mậu Ngọ 1978 - Trên Đường Biên Giới – trang 22)

GỬI PHẠM THIÊN THƯ

(Để nhớ khi ngồi uống cà-phê dưới gốc cây hoa vàng với Phạm Thiên Thư, năm 1981)

Bởi chưng xưa “gã từ quan”
Ngày nay ngồi ngắm hoa vàng mông lung
Xót trang bi sử ngượng ngùng
Thất phu thẹn với tang bồng nổi trôi
Mấy năm vật đổi sao dời
Hoài thân lận đận, vẫn đời hoang mang
Trước sân dăm cánh hoa vàng
Ngậm ngùi thế sự, ngàn hàng lệ sa.
(VŨ UYÊN GIANG – Sàigòn 1981)


TIỄN BẠN LƯU ĐÀY ĐẤT BẮC

Văn của Vũ Uyên Giang là văn của nhà báo. Theo thiển ý, hành văn của nhà báo khác hành văn của nhà văn. Chúng tôi vốn xuất thân từ tuần và nhựt báo. Và, chúng tôi vẫn tự hào về điều đó.
Anh viết truyện ngắn, truyện dài nếu không ăn khách, anh vẫn có thể bỏ tiền ra tự in sách cho mình, tổ chức ra mắt để... quảng cáo tên tuổi, để gỡ vốn, và hơn thế nữa, có thể kiếm lời!
Chúng tôi viết báo, sống chuyên nghiệp với nghề báo, luôn luôn cố gắng viết thế nào để bài của mình có độc giả chịu đọc! Viết phóng sự, viết truyện ngắn, truyện dài đăng hàng ngày mà độc giả không thích, không đọc chừng vài ba kỳ là anh bị Chủ nhiệm cho ngưng đăng bài hoặc cho nghỉ việc.
Hồi xưa ông bà Chủ nhiệm nào cũng canh chừng ráo riết bài vở của tờ báo. Báo không có bài hay thì không có độc giả. Trước 1975, các bài viết ở trang trong tờ nhựt báo là yếu tố chính duy trì sự sống còn của tờ báo.
Giữa các nhựt báo luôn luôn có sự cạnh tranh rất quyết liệt. Bài vở trang trong dở, tin tức trang ngoài chậm trễ thì tờ báo chắc chắn đi đoong!
Do vậy, vào thời đó, làm ký giả từ phóng viên trở lên là điều không dễ dàng!
Vũ Uyên Giang là nhà báo thứ thiệt. Văn của anh là văn của nhà báo. Tôi nói như vậy để nhấn mạnh lối hành văn hấp dẫn và trung thực của anh.
Trước khi bước chân vào làng báo Sàigòn, tôi đã nghe câu “Nhà báo nói láo ăn tiền”. Nhưng qua 45 năm theo đuổi nghiệp dĩ, tôi vẫn thấy câu đó không đúng. Nhà báo nói láo thì chắc chắn... không ăn tiền được đâu! Nhà báo nói láo, nhẹ thì bị phản đối, bị tẩy chay, nặng có thể ra tòa lãnh án tù như chơi!
Nhà báo chỉ cần viết láo một lần cũng đủ khiến khó tiếp tục hành nghề.
Mời quí độc giả đọc một đoạn rất thú vị trong quyển Trên Đường Biên Giới:
... Trần Ngọc Tự thì đã bị chuyển ra ngoài Bắc trong đợt chuyển một số lớn anh em cải tạo thuộc thành phần “ác ôn, có nhiều nợ máu với nhân dân” như An Ninh, Tình Báo, Chiến Tranh Chính Trị... bị cho là nguy hiểm nên phải đày ra núi rừng Việt Bắc vào đầu năm 1977. Cái lý do Tự bị đưa đi Bắc chỉ vì anh khai cấp bậc và chức vụ là: Trung úy Chiến Tranh Chính Trị, Thư ký Tòa soạn Tập san Lý Tưởng Không Quân. Bọn Việt cộng vốn ghét An Ninh, Tình Báo và Chiến Tranh Chính Trị, mà Tự lại khai là Thư ký Tòa soạn Tập san Lý Tưởng Không Quân; bọn VC ngu dốt lại cho là anh có nhiệm vụ soạn tài liệu về lý tưởng cho Không quân chống cộng. Hơn nữa trong một lần học tập chính trị, Tự đã phát biểu một cách văn hoa là: “Thưa các bạn, xuyên qua quá trình lịch sử Việt Nam cận đại, đảng cộng sản Việt Nam xuyên suốt sợi chỉ hồng...”
Tên quản giáo Việt cộng ngồi theo dõi buổi học tập đã chặn anh lại và “giáo dục những kẻ lầm đường lạc lối” như sau:
- Anh Tự. Anh là một người cực kỳ phản động, vào đến đây rồi mà anh vẫn còn tiếp tục chống phá cách mạng bằng cách dùng thủ đoạn chiến tranh tâm lý để tuyên truyền xuyên tạc đường lối của đảng và nhà nước ta; đổi trắng thay đen làm suy yếu đi cái tính chất vĩ đại thần thánh của đảng cộng sản ta. Đảng cộng sản Việt Nam là một đảng vĩ đại với sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt và vĩ đại của Bác, nên đã chiến thắng được 3 tên đế quốc sừng sỏ đó là Thực dân Pháp, Phát xít Nhật và Đế quốc Mỹ nên đã dẫn dắt đến chiến thắng ngày nay, giành được tự do, độc lập. Đánh bại đế quốc Mỹ và phá tan bộ máy chiến tranh khổng lồ của Ngụy quân, Ngụy quyền Sàigòn. Vậy mà anh dám xuyên tạc lịch sử Việt Nam là cận đại. Lịch sử Việt Nam chỉ có vĩ đại chứ làm gì có cận đại? Đảng cộng sản Việt Nam với biểu tượng là lá cờ đỏ rực rỡ thì anh xuyên tạc ra là sợi chỉ hồng là thế nào?
Cả tổ đã không nhịn được cười trước lý luận ngu dốt và sự hiểu biết nông cạn của tên cán bộ VC. Chính vì vậy mà y đã ghim Tự vào trong hồ sơ đen của những người ngoan cố chống đối; và hậu quả là trong đợt chuyển trại lần này nhằm đem những tên nguy hiểm ra miền Bắc, nơi có điều kiện giam giữ khắc nghiệt hơn.
Hôm Tự đi, Vũ đưa tiễn ra tận cổng trại, một đoàn người tiễn đưa bịn rịn. Tự cười toe toét, đưa tay sửa lại gọng kiếng cận thị, nói:
- Kỳ này tớ có dịp thăm lại Ninh Bình quê tớ rồi!
Vũ nhét vào tay Tự mấy vần thơ anh viết tặng Tự và dặn “... Đọc xong thì đốt đi!”

TIỄN BẠN LƯU ĐÀY ĐẤT BẮC
(Tặng Trần Ngọc Tự)

Mày đi nặng gánh lao tù
Gió mưa Việt Bắc mịt mù từ đây
Còn tao heo hút chân mây
Khổ sai, lao dịch dưới tay vượn người
Mày đi, môi vẫn mỉm cười
Cỏ cây rũ rượi khóc lời chia xa...

(Viết tại Long Giao 1977 – VŨ UYÊN GIANG
(Trên Đường Biên Giới – các trang 12, 13)


NHÀ BÁO LÃNG TỬ

Tháng 5 và tháng 6 năm 2002, hai lần Vũ Uyên Giang tới Minnesota. Dự đám cưới hai cháu Huy-Hồng. Và, đại diện gia đình người em kết nghĩa Minh Hoàng trong ngày vu quy của ái nữ của Minh Hoàng. Chú rể là con trai của Giáo sư Đoàn Viết Hoạt.
Vũ Uyên Giang là nhà văn, nhà thơ và là một ký giả chuyên nghiệp trước 1975, Chủ nhiệm tạp chí Đất Sống tại North Carolina. Từ năm 2001, Đất Sống phát hành thêm tại Florida, với sự tiếp tay của nhà thơ Bùi Trần Tuấn. Tuấn là rể của cố thi sĩ Hữu Phương tức Phó Đề Đốc Nguyễn Hữu Chí, tác giả những Thi tập nổi tiếng Luống Biển, Neo Tuổi Vàng...
Là một người cầm bút, nhưng Vũ Uyên Giang có khuôn mặt và vóc dáng của một võ tướng, lại có đời sống của một tay giang hồ kỳ hiệp. Tôi nghĩ, không có vùng đất nào có thể cầm chân được một tay lãng tử. Chiếc xe của anh đã cùng anh dong ruổi: Carolina, Illinois, Florida, California... Trên xe đầy nhóc sách vở báo chí. Ở đâu Vũ Uyên Giang cũng có người thân, bạn bè. Và, Vũ Uyên Giang sẵn sàng vì bạn bè mà nghêu ngao không nhớ gì ngày tháng. Có lần, Vũ Uyên Giang làm xong tạp chí Đất Sống số tháng 6-2002, đem ra xe đưa đi in. “Bánh xe lãng tử” dừng lại dọc đường và chiếc xe đã chở thêm nhà văn nhà thơ kiêm nhạc sĩ Hà Thúc Sinh tiếp tục ngao du để rồi quên luôn việc in báo. Kết quả tạp chí Đất Sống số tháng 6-2002 đến tháng 7-2002 mới in được.
Vũ Uyên Giang sống như vậy, ngay từ trước năm 1975 chớ không phải tới bây giờ mới vậy. Hào sảng, chí tình với bạn bè. Nhiều trái tim đã thổn thức vì con người phiêu bạt nầy. Nhưng cũng không ít người, kể cả bằng hữu, thân hữu đã phật lòng vì sự trực tính của anh.
Trên tạp chí Đất Sống, Vũ Uyên Giang lập ra Quỹ Tương Trợ Văn Nghệ Sĩ, đã giúp đỡ phần nào những đồng nghiệp, văn thi hữu cũ: nhà văn Văn Quang, nhà báo Khánh Giang, nhà văn Lê Xuyên, nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ, nhà báo Hồ Nam (nhà thơ Vương Tân), nhà thơ Sa-giang Trần Tuấn Kiệt, nhà thơ Mai Trung Tĩnh...
Năm 2000, Vũ Uyên Giang ấn hành tập bút ký Trên Đường Biên Giới được độc giả và văn giới đón tiếp nồng nhiệt.
Hai lần Vũ Uyên Giang tới Minnesota, mỗi lần một tuần. Và, mười bốn ngày trong hai tuần đó, ngày nào anh cũng ngồi vào những bữa rượu của bạn bè. Ở Minnesota, Vũ có rất nhiều bạn. Tôi cũng có mấy bữa ngồi với Vũ, nhắc kỷ niệm và những người bạn cũ trong những năm làm báo ở Sàigòn.
Ngày 1-7-02, gia đình Minh Hoàng tổ chức mừng sinh nhựt Vũ Uyên Giang tại nhà hàng Seafood Palace, ở Minneapolis. Đông đảo bạn bè tới tham dự. Đặc biệt có sự hiện diện của ÔB Đoàn Viết Hoạt, nhà thơ MH Hoài Linh Phương, nhà văn Phan Nhật Nam, Trần Văn Thanh (cùng khóa 2/68 trường Bộ Binh Thủ Đức với Vũ Uyên Giang)...
Đầu tháng 9-02, Đỗ Hùng điện thoại cho biết mới “nhậu” với Vũ Uyên Giang và nhà văn Trà Nguyễn ở Georgia. Cuối tháng 9-02, Vũ điện thoại cho biết đang ngồi “nhậu” với Trà Nguyễn ở Charlotte, North Carolina. Vũ đang homeless và đang tá túc ở nhà Trà Nguyễn.
Tôi vẫn còn nghe được tiếng cười sảng khoái, hồn nhiên của Vũ trong điện thoại. Chỉ mới hơn một năm, tiệm phở, ngôi nhà, tờ báo (Tạp chí Đất Sống) và giàn máy móc dùng làm báo của Vũ đã trở thành... dĩ vãng! Bây giờ Vũ chỉ còn chiếc xe làm phương tiện nghêu ngao và... chẳng làm gì cả!
Tôi nói, “Rảnh rổi như vậy thì làm thơ tiếp đi!”
“Làm thơ thì sẽ tính sau! - Bây giờ mắc “lỳ một lam”... làm một ly với Trà Nguyễn!”
Vũ cười ha hả trong điện thoại.

Cuối tháng 12-2002, mới từ Texas trở về Minnesota tôi nhận được e-mail của Vũ Uyên Giang cho biết anh đang ở Chicago, Illinois. Đêm 24-12-2002, anh đưa ông cụ thân sinh vào bệnh viện cứu cấp và ông cụ phải nằm lại ở bệnh viện. Anh là một thành viên Ban Tổ Chức buổi ra mắt quyển “Hồi Ký Vượt Ngục” của Trà Nguyễn vào ngày 4-1-03 tại North Carolina. Không biết anh có về kịp ngày đó không? Phần tôi đã hứa với Trà Nguyễn sẽ có mặt ngày anh ra mắt sách.
Sáu tháng nay, Vũ Uyên Giang trong tình trạng nghỉ xả hơi. Tuy nhiên anh vẫn đi đây đó. Anh có vẻ vui thú với chuyện rong chơi hơn là việc lo toan sự nghiệp. Thật ra thì bạn bè chẳng ai trách anh.
Lâu lắm rồi tôi mới dùng lại hai tiếng “sự nghiệp” như một sự tình cờ. Bạn bè tôi - lứa tuổi từ sáu đến bảy mươi - ít ai bận tâm tới chuyện đó. Nhiều người bạn tôi “vừa làm vừa chơi”. Thật ra, chơi nhiều hơn làm. Không phải vì tắc trách, cũng không phải vì lêu lổng. Những người bạn đó đã cống hiến một thời tuổi trẻ cho quê hương đất nước, đã tiêu phí bao nhiêu năm tháng thanh xuân trong chốn lao tù. Bây giờ cùng một lứa bên trời lận đận, tứ xứ tha hương, nhưng những người bạn tôi vẫn chưa bỏ cuộc. Bốn tiếng “vừa làm vừa chơi” chỉ là một cách nói, một cách diễn đạt phong cách của một thế hệ thanh niên hào kiệt và hào hoa, vốn không coi bản thân mình là quan trọng trong những năm tháng mưu cầu hạnh phúc cho dân tộc.
Tôi biết Vũ đang cố gắng bắt đầu lại công việc, trong đó có việc tục bản tờ Đất Sống. Nhưng anh không lộ ra những lo nghĩ của mình, cũng không muốn bạn bè lo nghĩ dùm mình. Anh vẫn bình thản, tựa hồ mọi thứ chẳng có chi nhằm nhò! Tôi đã gặp thái độ nầy ở Nguyễn Ngọc Chấn CNN, Lâm Tường Dũ, Ngọc Hoài Phương, Trần Ngọc...

Hương vị quê hương không ở đâu xa mà chính là mùi đất, mùi bùn...
... Thành sung sướng nghĩ đến ngày được đặt chân trở lại quê nhà, sống cuộc đời bình dị của người dân một nước tự do, dân chủ. Cái bóng ma cộng sản sẽ không còn là nỗi ám ảnh, khiếp sợ của mọi tầng lớp dân chúng. Từ Nam ra Bắc sẽ rộn rã tiếng hò, câu hát. Từ nông thôn cho đến thành thị sẽ vang tiếng nói cười. Trên khuôn mặt rạng rỡ của các trẻ thơ sẽ không còn vẻ xanh xao vì thiếu ăn, thiếu dinh dưỡng. Nguồn nhân lực dồi dào của gần hai triệu người Việt hải ngoại sẽ đổ dồn về để cùng nhau xây dựng đất nước từ đống tro tàn. Giới trẻ ở hải ngoại với trí tuệ và tri thức học hỏi được từ những văn minh tiến bộ nhất thế giới loài người sẽ góp phần xây dựng lại đất nước Việt Nam trở thành phú cường và tiên tiến nhất vùng Đông Nam Á. Với những kinh nghiệm đau thương trong lịch sử mà lớp tuổi cha anh đã góp phần, giới trẻ sẽ học được bài học quý giá về sự đoàn kết để cùng tái thiết và xây dựng đất nước từ hoang tàn đổ nát và họ sẽ có được những hướng đi mới để giữ nước. Ngày ấy, những người ở lớp tuổi như Thành, như Hải... sẽ lui về sống đời an nhàn để hưởng những hạnh phúc trân quý của chuỗi ngày còn lại trên quê hương dấu yêu thực sự tự do, dân chủ, no ấm. Anh còn nhớ một người nào đó đã viết rằng: “Không có ở đâu bằng chính quê hương của mình...”; điều đó Thành thấy đúng vô cùng. Đối với anh, thà được sống yên trên mảnh đất, thửa vườn của ông cha để tận hưởng được mùi thơm của lúa trổ đòng đòng, để tìm thấy hương vị quê hương không ở đâu xa mà chính là mùi đất, mùi bùn trong những mảnh ruộng, ao sen, mương rạch, cây trái đồng quê; trong tiếng hát câu hò trên dòng sông Tiền, sông Hậu, sông Đồng Nai...
Tất cả những thứ ấy như một hấp lực ma mãnh khiến con người ta bị cuốn hút vào cơn mê say, thèm thuồng; và chỉ khi nào được thực sự sống trong cái niềm vui ấy, trong cái xã hội bình dị ấy, nơi sinh ra và lớn lên bằng những kỷ niệm của một thời, một tuổi; người ta mới cảm thấy yên ổn trong tâm hồn.
Ôi! Mùa Xuân bao giờ mới trở lại quê tôi???
Chicago, tháng 1-1991
(Trên Đường Biên Giới – trang 132)

Mỗi ngày mình cũng nên gặp mình một lần!

Tôi không có thẩm quyền cũng như không đủ tư cách để đánh giá cuộc đời của bạn tôi, nhứt là bạn tôi lại là người cầm bút.
Qua một số việc làm của Vũ Uyên Giang mà tôi chứng kiến, tôi thấy anh là một người chính trực. Nhưng bản tánh này không có lợi cho anh và anh đã nhận lãnh những hậu quả không tránh khỏi.
Điều đáng nói là Vũ Uyên Giang đã không sờn lòng. Vẫn là Vũ Uyên Giang như từ trước 1975, một Vũ Uyên Giang ngang tàng, bất khuất có lần dám “chơi” cả anh Giám đốc Trị sự ngay trên tờ báo mà anh ta đang... “trị sự”!
Từ hồi cuối năm 2003 đến giờ, Vũ Uyên Giang trụ bộ ở thành phố San Leandro, California, dựng lại chuyện làm ăn. Mỗi lần trao đổi e-mail với anh, tôi đã hết sức dè dặt, cố gắng không nhắc chuyện thơ văn báo chí với anh. Tôi ngại mình vô tình làm cho anh lại động lòng bốn phương.
Những hệ lụy gia đình vẫn còn ràng buộc Vũ, khiến anh phải lùa ngựa vào chuồng, tra gươm vào vỏ. Gươm đã tra vào vỏ, và thanh gươm đã treo ở chỗ nào đó của một góc tâm tư, nhưng biết đâu chừng cơn ngứa tay có thể đến bất chợt và gươm sẽ được rút trở ra để múa những tuyệt chiêu cho bớt ngứa và cho... đã ghiền!
Tôi chỉ nhắc Vũ, “làm gì cũng phải để dành chút thì giờ cho sáng tác”.
Tôi vẫn nghĩ, cho dầu bận rộn tới đâu mỗi ngày mình cũng nên gặp mình một lần. Cái lần đó, theo cuộc sống và theo tuổi tác hình như càng ngày càng hiếm hoi...

PHƯƠNG TRIỀU
Texas, tháng 8-2004

Wednesday, October 14, 2009

CHIẾN TRƯỜNG XƯA của Vũ Uyên Giang - Phần 2 tiếp theo

ĐÙA VŨ UYÊN GIANG

Đang họ Nguyễn đổi sang họ Vũ
Hoặc nhà binh dụng võ hơn chăng?
Ngày xưa muốn dẹp bất bằng
Ngờ đâu gặp lúc cắn răng chạy dài
Thơ người viết ta nay xin đọc
Gót giày sô ngang dọc giờ đành
Biết tìm đâu giữa tuổi xanh
Nhìn vào chỉ thấy những anh lính già
Không phân biệt là ta hay bạn
Cứ gặp nhau cạn chén là vui
Ra về lòng những bùi ngùi
Rượu văn chương nếm đủ mùi nhục vinh.

HÀ THƯỢNG NHÂN


KHI Ở TÂY NINH

Rời chiến trận ta về qua Bến Sỏi
Bụi đỏ au trên vai áo chinh nhân
Ngang Thanh Điền ta bỗng ngập ngừng chân
Vì cô bé Bắc kỳ xinh quá sức
Tà áo trắng bay bay, thơ rất mực
Khiến cho hồn chiến sĩ bỗng bâng khuâng
Lính bộ binh về hậu cứ dưỡng quân
Vẫn lội bộ mỏi chân quanh phố chợ
Từ Kim Ánh, Phú Lai say tở mở
Lại quay về nhậu đế ở Long Hoa
Đêm quán Mường, ôi nước mắt chan hoà
Nghe tin bạn bỏ thây ngoài trận tuyến
Đời trai trẻ sống giữa thời chinh chiến
Mấy người đi mà có mạng quay về (1)
Ta gục đầu thương bạn chết xa quê
Giữa lúc tuổi thanh xuân vui hớn hở
Xác tan tác vì mìn trên giao lộ
Tận Svay Rieng xa lơ lắc ngút ngàn
Giữ ấm êm cho dân chúng Sàigòn
Trước làn sóng xâm lăng từ phương Bắc
Và cũng chẳng cần được ai mạc mặt (2)
Chẳng vinh danh và cũng chẳng biết tên
Ôi Tây Ninh ta vẫn nhớ triền miên
Từ một thuở xa xưa làm lính chiến...

VŨ UYÊN GIANG
(1) Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi?
(2) "nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn" trong Chinh Phụ Ngâm


BÀI HỌA CỦA CỤ HÀ THƯỢNG NHÂN

Làm chiến sĩ có khác chi hòn sỏi
Với bạn bè quên cả áo thi nhân
Giữa bộn bề thôi thì thử dừng chân
Đây quán phở An Hòa ta liệu sức
Giờ buông súng thì quay về bút mực
Ly rượu vang cùng bạn rót bâng khuâng
Sao mà quên những buổi rượu hành quân
Phanh vạt áo cười ran ngay giữa chợ
Cửa ai đóng mà lòng ai vẫn mở
Trên tháng ngày vẫn thắm một vòng hoa
Gặp lại nhau trông mặt thật hiền hòa
Thật là khác những ngày trên trận tuyến
Bọn chúng ta tuy vẫn là lính chiến
Vẫn đắm say trên những nẻo đi về
Vẫn lòng đau một nỗi nước non quê
Lúc xung trận lòng vô cùng hớn hở
Nơi xứ lạ trùng trùng là xa lộ
Như nước trôi xe chạy cứ ngàn ngàn
Bỗng tự nhiên lại thương nhớ Sàigon
Mắt đẫm lệ ngoảnh nhìn về đất Bắc
Trước lịch sử ta chưa hề cúi mặt
Tướng và quân còn để lại bao tên
Đêm hôm nay trằn trọc giấc cô miên
Ta lại nhớ ngày nào còn chinh chiến.

HÀ THƯỢNG NHÂN


MỘT CHUYẾN HÀNH QUÂN LONG AN - HẬU NGHĨA

Một buổi sáng hành quân ngang Bến Lức
Nghe mùi thơm sực nức của lúa non
Đồng ruộng xanh bát ngát trổ đòng đòng
Chân chiến sĩ ngập ngừng bên ruộng lúa
Hây hây đỏ má hồng cô thôn nữ
Đời chiến binh tình tứ mộng đơm hoa
Quên mệt nhọc, quên chiến trận mù xa
Vui nhịp bước trên nẻo đường chiến đấu
Diệt giặc cỏ ở vườn thơm sáu mẫu (1)
Phá trùng vây kinh Trà Cú, Bo Bo
Đám lá tối trời, ngủ bụi ngủ bờ (2)
Sông Vàm Cỏ ngụy trang ta phá địch
Ôi Long An những đêm dài tịch mịch
Trong bóng đen ẩn náu những hình ma
Muỗi mòng thêm đỉa vắt quấy rầy ta
Vượt sông rạch về Đức Hòa, Đức Huệ
Tạm dừng quân nhậu vài chai lẻ tẻ
Xóm Bàu Trai ai bắc nhịp Cầu Duyên (3)
Đi trên cầu lại nhớ Mã Sanh Nhơn (4)
Tìm hình bóng em Tha La Xóm Đạo
Rời Lộc Giang, Trảng Bàng ta khờ khạo
Lỡ sa vào cô giáo trẻ sớm mai
Chỉ vài hôm là tơi tả hình hài
Chân vui bước nhưng lòng còn để lại
Ôi đời lính ta vẫn còn đi mãi
Nay Long An, mai Hậu Nghĩa, Tây Ninh…
Mỗi nơi qua để lại những ân tình
Chân bối rối luyến lưu không nỡ bước.

VŨ UYÊN GIANG
(1) Vườn thơm Lý Văn Mạnh ở Long An
(2) Đám lá tối trời” địa danh nằm bên Kinh Bo Bo từ phía vườn thơm Lý Văn Mạnh đi Đức Huệ
(3) Bàu Trai còn gọi là Khiêm Cương là thị xã của tỉnh Hậu Nghĩa nơi có chiếc Cầu Duyên
(4) Đại tá Mã Sanh Nhơn, Tỉnh trưởng Hậu Nghĩa người đặt tên chiếc Cầu Duyên


TRỞ LẠI BÌNH DƯƠNG

Ngày trở lại Bình Dương mù khói súng
Giữa mùa Hè đỏ lửa bảy mươi hai.
Nay Lai Khê, mai Bến Thế dài dài
Đoàn quân mỏi gót chân săn bắt địch
Từ Bà Chủ về Tàu Ô mắc dịch
Bọn cộng nô như chuột lắt trong hang
Chúng chơi trò "chốt chặn" tại Bàu Bàng
Ngăn bước tiến quân ta về An Lộc
Ta réo bạn từ căn hầm ẩm mốc
Pháo trên đầu cấp tập giải vây nhau.
Với biển người chúng định diệt ta đau
Nhưng cũng chỉ làm mồi cho pháo bạn
Một chọi mười ta chẳng cần phí đạn
Xác giặc phơi ngập kín cả chiến trường
Áo chiến binh khét bom đạn Bình Dương
Ngày trở lại cũng bình thường như trước
Cũng gian truân đời chiến binh ta bước
Cũng mồ hôi và máu bạn bè ta.

VŨ UYÊN GIANG
San Leandro, CA Tháng 8/2007
(Nhớ về chiến trường Bình Dương năm 1972)


TRƯỚC – SAU

Trước, sau rồi cũng sẽ về
Hẹn hò cho lắm chỉ thề thốt môi
Mỗi ngày sao vẫn đổi ngôi
Mỗi người cũng một kiếp đời phù sinh
Hãy mau tỉnh giấc vô minh
Vô thường mấy độ chúng sinh lạc loài
Trở về cát bụi là thôi
Cõi người si hận cõi đời hư vô.

VŨ UYÊN GIANG
5/2006



GỬI VŨ UYÊN GIANG

Người học người xưa thói Mạnh Thường
Cảm người vì một chút văn chương
Rượu không uống được cùng thi hữu
Say dễ gì đâu lúc nhiễu nhương?
Lòng đã coi nhau như buổi mới
Làm sao xoá được chữ yêu thương
Nhưng ta tính vốn ưa sòng phẳng
Dầu biết cùng đi một ngả đường
Ta đọc thơ người ta cảm khái
Ngàn năm thôi cũng đã tơ vương
Ta mong có buổi nào đông đủ
Nâng chén cười rung cả bốn phương
Mà nói Uyên Giang là có bạn
Từ nay là có bạn văn chương.
Hôm nay kiếu bạn ta xin nghỉ
Mai mốt tìm nhau giữa hí trường
Người viết bài hành như buổi nọ
Ta về thơm ngát một mùi hương
Tiếc không còn tuổi hoa niên nữa
Để hẹn nhau về giữa cố hương
Gặp lại những ai như Nguyễn Bính
Để nghe Khương hát, nghe Khê hát
Để thấy mình đang giữa thịnh đường.

HÀ THƯỢNG NHÂN
San Jose 18/1/2007


THÁNG TƯ

Tháng Tư? Lại nhớ Tháng Tư xưa
Vận nước điêu linh thật bất ngờ
Chìm đắm trầm luân trong ngục đỏ
Niềm đau hằn dấu đến bây giờ.

Viễn xứ, tha phương - nhớ cố hương
Mang thân tị nạn tủi miên trường
Trắng tay bại tướng làm thương nữ (1)
Bắng nhắng hề xưa vẫn diễn tuồng

Ngồi nhớ tháng tư ôm nỗi đau
32 năm trước lạc tìm nhau
Người đi xứ lạ phương trời thẳm
Kẻ đếm thời gian giữa ngục sâu

Mái tóc bạc phơ vẫn chẳng quên
Niềm đau bại trận, nỗi đau riêng
Chỉ mong nhìn thấy quê hương cũ
Thoát ách cộng nô - chết mới yên.

Tháng 4/2007
(1) Thương nữ bất tri vong quốc hận




Lao xao sóng nước ven bờ
Bước chân phiêu lãng hững hờ nẻo xa
Một mai mỏi gót giang hồ
Hồn du tử cũng ươm mơ gọi về.

VŨ UYÊN GIANG
16-4-2007


MỘT GÓC HÀ NỘI


Nước vẫn xanh xanh ở mặt hồ
Tiền nhân xây dựng một cơ đồ
Xưa Lê Thái Tổ giao hoàn kiếm
Giặc cộng gây nên vạn vết nhơ

Cảnh cũ người xưa thấy ngậm ngùi
Cỏ hoa u uất chẳng còn tươi
Cho dù tô điểm bao khẩu hiệu
Cũng chỉ làm khung cảnh mất vui

Đường phố ngày nay đã lạ xa
Một thời dĩ vãng cũng phôi pha
Những căn nhà cũ tường hoang phế
Vách phủ rêu phong năm tháng qua.

VŨ UYÊN GIANG
Hà Nội, 18/5/2007



HÀ NỘI CHIỀU MƯA

Ta đã về đây giữa buổi chiều Hà Nội
Những hạt mưa xen kẽ nắng lưa thưa
Hồ xanh lơ soi hình tháp chơ vơ (1)
Gờn gợn sóng, liễu lả lơi soi bóng
Cây đa cũ vẫn đứng im bất động
Gốc sần sùi như ngủ giấc trăm năm
Mặc cho giòng lịch sử cứ xoay vần
Cây chứng kiến từng dối gian oan khuất
Ôi Hà Nội! Những đường xưa đã mất
Nét riêng tư của 36 phố phường
Chẳng tìm đâu ra Hàng Bột, Hàng Buồm
Vẻ sầm uất của Hàng Bông, Hàng Trống
Con đê cũ không còn nhìn thấy bóng
Nước sông Hồng cạn kiệt những phù sa
Năm cửa Ô vang bóng thuở xa xưa
Chỉ còn vết của cửa ô Quan Chưởng
Hồ Trúc Bạch, Cổ Ngư ta lạc hướng (2)
Dẫu thiếu thời ta mòn bước chân qua
Từ Thuyền Quang lội bộ đến Hàng Bồ
Mưa lướt thướt thấm ướt vai lữ khách
Chùa Một Cột đứng im trong nắng nhạt
Như thi gan cùng tuế nguyệt thiên thu
Ô uế lây vì lăng của giặc Hồ
Làm nhơ nhuốc cảnh quang thêm u ám (3)
Mưa Hà Nội, phố phường đêm ảm đạm
Dẫu cờ hoa, đèn đuốc vẫn thê lương
Bọn người kia ôm bạo ngược hoang đường
Làm sao có niềm vui trong ánh mắt?

VŨ UYÊN GIANG
Hà Nội 20/5/2007
(1) Tháp Rùa Hồ Hoàn Kiếm
(2) Đường Cổ Ngư từ Thái Hà Ấp ra Hà Nội ngày nay đã đổi tên thành đường Thanh Niên
(3) Chùa Một Cột chỉ còn một khoảnh nhỏ nằm giữa 1 bên là lăng của gian nhân Hồ Chí Minh và 1 bên là Bảo tàng HCM nên khung cảnh trở nên u ám


BÀI HỌA CỦA CỤ HÀ THƯỢNG NHÂN:

HÀ NỘI CHIỀU MƯA

Ở Bắc Mỹ bỗng nhớ chiều Hà Nội
Nhớ hạt mưa trong nắng nhỏ lưa thưa
Nhớ hồ xanh soi tháp cổ bơ vơ
Nhớ lá liễu khi trăng ngà soi bóng
Nhớ Hà Nội những buổi chiều bất động.
Cây đa xưa cõm cõi giữa trăm năm
Bao bể dâu biết mấy độ xoay vần
Ta còn đó, biết bao người đã khuất
Tên đường trước tưởng còn nay lại mất
Nhớ làm sao, nhớ 36 phố phường
Nhớ Hàng Bột, nhớ Hàng Buồm
Nhớ Hàng Bông, Hàng Trống
Con đê cũ không còn nhìn thấy bóng
Nước sông Hồng vận chuyển mãi phù sa
Năm Cửa Ô của một thưở nào xưa
Còn duy nhất một Cửa Ô Quan Chưởng
Giữa Hà Nội bỗng dưng mà lạc hướng
Thuở thiếu thời từng mòn gót đi qua
Hồ Thuyền Quang xuôi dọc xuống Hàng Bồ
Giọt mưa nhẹ đủ ướt vai lữ khách
Chiều Hà Nội mơ hồ trong nắng nhạt
Ta nhớ sao như nhớ lại mùa thu
Nỗi nhớ thương phút chốc thật mơ hồ
Qua tám hướng toàn sắc màu u ám
Không phải thấy đầy trời mưa ảm đạm
Thơ Hoàng Cầm một thủa thật thê lương!
Tiếng mưa rơi trên ngọn tháp giáo đường
Sao bỗng thấy riêng mình cay khóe mắt

HÀ THƯỢNG NHÂN
24 tháng 6 năm 2007


MAI TA VỀ GHÉ NGANG ĐÀ LẠT


Mai ta về ghé ngang Đà Lạt
Tìm dấu chân xưa trên lối quen
Yersin ngày trước còn nguyên vẹn
Hay cũng tàn phai theo biến thiên?

Khu chợ Hòa Bình vẫn chỗ xưa?
Cà phê Tùng cũ dáng ai chờ
Xuôi theo con dốc Lâm Viên đó,
Tà áo nào cho ta mộng mơ?

Giòng nước Cam Ly chảy lững lờ
Lăng Ông Hào (1) vẫn đứng chơ vơ
Chân ai rón rén trên bờ cỏ
Kinh động hồn ai gieo ý thơ?

Hồ Xuân Hương nắng lặng lờ buông
Dường như ai đó bước bên đường
Vườn hoa cuối phố còn hoa nở
Héo hắt nhạt phai bởi nhớ thương?

Đà Lạt ngày xưa ta ghé qua
Gặp ai trên bãi cỏ tình cờ
Rồi xa, xa tắp theo thời cuộc
Để lại trong lòng bao ước mơ.

VŨ UYÊN GIANG
San Leandro, tháng 5/2007
(Nhớ lại lần ghé Đà Lạt năm 1972)
(1)Lăng Nguyễn Hữu Hào


BÀI HỌA CỦA CỤ HÀ THƯỢNG NHÂN:


Lâu rồi chưa ghé chơi Đà Lạt
Tìm cảnh xưa qua bạn hữu quen
Hoa cỏ vẫn là hoa cỏ ấy
Vẫn là hoa cỏ thuở tiên thiên

Hòa Bình chợ cũ những ngày xưa
Có quán cà phê vẫn đón chờ
Xuôi dốc Lâm Viên tà áo mỏng
Bỗng nhiên vẽ lại những cơn mơ

Giòng thác Cam Ly chảy lặng lờ
Ông Hào lăng cũ đứng bơ vơ
Bước chân nào đó vừa qua đó
Gót đỏ còn bên bóng giáng thơ

Giọt nắng quanh hồ lặng lẽ buông
Phải như ai đó đứng bên đường
Phải hoa vừa nở trong vườn cũ
Em hái cho người em mến thương?
Là đây vừa mới có hôm qua
Mà tưởng như xoay lại thế cờ
Mà tưởng như là trong cổ tích
Té ra là chỉ những cơn mơ.

HÀ THƯỢNG NHÂN 22/6/2007


ĐÀ LẠT NGÀY VỀ

• Tặng Lệ Khánh

Ta về một sớm ngang Đà Lạt
Lạc dấu chân xưa không nét quen
Leo lên con dốc dường như lạ
Thành phố bây giờ bao biến thiên

Thung Lũng Tình Yêu vẫn chỗ kia
Rừng thông, đồi cỏ đứng im chờ
Thác Prenn xây cất khu nhà mới
Sương khói chiều hôm bên dốc mơ

Đỉnh núi Liang Biang mây lững lờ
Nhà thờ mái đỏ rêu chơ vơ
Du khách chen chân cười rộn rã
Đà Lạt ngày nay hết nét thơ

Ghé thăm Lệ Khánh lúc chiều buông
Mái tóc bạc phơ đứng dưới đường
Nhắc nhở bao ngày văn nghệ cũ
Hỏi thăm bè bạn những thân thương

Đà Lạt lần này ta ghé qua
Đổi thay dâu bể đến không ngờ
Nhà cao san sát che tầm mắt
Không thể nào tìm ra dấu xưa

VŨ UYÊN GIANNG
Đà Lạt ngày 1 tháng 6 năm 2007



NGÀY VỀ AN HỮU
Tặng hương hồn bạn tôi nhạc sĩ Anh Việt Thu


Rời phố thị ta về thăm An Hữu
Qua Cổ Cò nước đục những phù sa
Xuống dốc cầu mưa bỗng đổ nhạt nhòa
Như khóc bạn ngày xưa nằm yên nghỉ
Ôi bạn ta Anh Việt Thu nghệ sĩ
Đang ngủ say trong vườn tược quê nhà
Bỏ những ngày chinh chiến cũ đi qua
Nhưng uất hận chưa phai “Trên Đầu Súng” (1)
“Tám Điệp Khúc” vang vang trên làn sóng
Với “Hai Vì Sao Lạc “ giọng Hoàng Oanh
Đã một thời sáng tên tuổi của anh
Người bạn của một thời trong chinh chiến
Bạn bỏ cuộc chơi trước khi binh biến
Nên bình yên không nếm nỗi nhục hình
Của những kẻ vai mang kiếp bại binh
Trong tù ngục lưu đầy trên khắp nước
Bạn khôn quá tìm đường ra đi trước (2)
Để tránh loài qủy dữ sướng hơn ta
Ta mù lòa mắc kế bọn gian tà
Treo mạng sống nghiệt oan trên sợi chỉ
Ngày hôm nay thay bạn bè ở Mỹ
Ta ghé về thăm bạn cũ nằm đây
32 năm bạn yên nghỉ chốn này
Hãy thanh thản bình yên say giấc ngủ
Được bao bọc bởi vườn cây trái cũ
Cũng mừng người thoát khỏi cõi nhân sinh.

VŨ UYÊN GIANG
(An Hữu, Chiều ngày 29/5/2007)
(1) Chữ in nghiêng là tên các bản nhạc của Anh Việt Thu
(2) Anh Việt Thu tên thật là Huỳnh Hữu Kim Sang chết ngày 15/3/1975


BÀI HỌA CỦA CỤ HÀ THƯỢNG NHÂN:

NGÀY VỀ AN HỮU

Bỏ thành thị ta về thăm bạn cũ
Nước Cổ Cò vẫn đục những phù sa
Xuống dốc xong nước mắt bỗng nhạt nhòa
Là mưa đấy, bạn nằm đây yên nghỉ
Tôi thương bạn vốn chung nòi nghệ sĩ
Mấy mươi năm say ngủ giữa quê nhà
Bao bể dâu mặc ngày tháng trôi qua.
Vẫn còn lại khúa hát xưa: “Trên Đầu Súng” (1)
Vẫn còn lại âm vang trên mặt sóng
Giọng người ngâm vẫn tài nghệ: Hoàng Oanh
“Hai Vì Sao…” còn sáng tuổi tên anh. (2)
Còn nhắc nhở ngày nào trong cuộc chiến
Nhưng từ độ non sông vừa binh biến
Anh bỗng đi! Không thấy bóng thấy hình
Không chịu làm một nghệ sĩ hàng binh
Không xuôi ngược ngày đêm trên đất nước
Anh sắp sẵn cho mình đi bước trước
Tránh bẽ bàng tủi nhục Cộng Hòa ta!
Ngày hôm nay trong bóng nắng chiều tà
Tìm mộ bạn như đi tìm kim chỉ
Để vá lại nỗi buồn trên nước Mỹ
Anh Việt Thu mai mốt biệt nơi đây
Anh nhớ chăng còn lại những giòng này
Chúc vui nhé! Bình an trong giấc ngủ
Anh vẫn có rất nhiều người bạn cũ
Đủ là quên lạnh lẽo kiếp phù sinh

HÀ THƯỢNG NHÂN
22/6/2007


NGÀY VỀ AN HỮU 2
Tặng hương hồn Anh Việt Thu


Ta về An Hữu một chiều mưa
Hoa bưởi, hoa cau chen bóng dừa
Giòng sông lờ lững trôi êm ả
Một chiếc thuyền nan lơ lửng qua.

Đi ngang Ấp Bắc chiến trường xưa
Ngọn gió lung lay giọt nắng trưa
Nhớ đến một thời trong khói lửa
Chao ơi cành phượng vỹ đong đưa.

Giòng nước Cổ Cò trôi chảy mãi
Bên vườn hoa trái mọc lưa thưa
Bạn ta nằm đó thân dầu dãi
Đã mấy chục lần mưa nắng qua?

Thôi nhé bạn ta quên quá khứ
Coi như tiền kiếp một dư thừa
Đã lỡ đầu thai lầm thế kỷ (1)
Cuộc đời thoáng chốc cũng là chưa.

VŨ UYÊN GIANG
An Hữu, chiều mưa 29/5/2007
(1) thơ Vũ Hoàng Chương


BÀI HỌA CỦA
CỤ HÀ THƯỢNG NHÂN:

NGÀY VỀ AN HỮU 2

Lại về An Hữu lại trời mưa
Để nhớ hoa cau chen bóng dừa
Để nhớ quê hương người bạn cũ
Qua rồi! Thương nhớ vẫn chưa qua

Ấp Bắc, ôi là trận đánh xưa
Bỗng nhiều gay gắt tiếng gà trưa
Bỗng nhiên trong nắng vàng hiu hắt
Nhớ những chùm hoa ai tiễn đưa

Cổ Cò giòng nước trôi đi mãi
Qua bến gọi hoài vắng tiếng thưa
Có phải ở đây người nghệ sĩ
Bỏ nhau từ buổi tối hôm qua

Hai lần thăm lại người xưa đó
Ta sống giờ đây biết có thừa
“Tám Điệp Khúc” nào vang vọng mãi
Việt Thu! Anh đã mất hay chưa?

Apr.11, 2007

THU SANG

Thu sang trời đất phủ màn sương
Ngọn gió rung cây lá ngập đường
Phố vắng đìu hiu đầy nỗi nhớ
Thềm hoang quạnh quẽ kín niềm thương
Dăm người lữ khách lòng trăn trở
Vài gã tha phương ngớ ngẩn buồn
Tím ngắt không gian chim lẻ bạn
Vàng thu héo hắt mộng vô thường

VŨ UYÊN GIANG
Chicago, 16/11/07



THĂM MẸ



Con về thăm mẹ một chiều thu
Cây lá vàng hoe, gió mịt mù
Chợt thấy cay cay trong khóe mắt
Chao ơi! Mẹ đã già hơn xưa…

VŨ UYÊN GIANG
Chicago, Nov.7/2007



BÀI HỌA CỦA
CỤ HÀ THƯỢNG NHÂN

Vẫn gió heo may rụng lá thu
Vẫn sương dằng dặc, vẫn mây mù
Mừng anh tuổi lớn về thăm mẹ
Dù thấy không còn giống lúc xưa.

HÀ THƯỢNG NHÂN
San Jose, 30/11/2007


TÂM
(Viết khi nhận được bức thư họa chữ Tâm của VUG gửi từ Chicago)

Ở đâu cũng nhớ chữ tâm
Tâm mình hồ dễ mà lầm được sao?
Gặp nhau dù một lời chào
Lúc nào cũng giống lúc nào thiết tha
Phải vì trời đất bao la
Nghĩ thân cát bụi mà ta nhớ hoài

HÀ THƯỢNG NHÂN
11/11/07

BÀI HỌA:

Nợ đời giữ một chữ TÂM
Với người cũng thế còn lầm hay sao?
Hơn thua chỉ một tiếng chào
Với tâm như vậy giận nào chẳng tha?
Không a dua đám phèng la
Cái tâm kia vẫn của ta nhớ hoài

VŨ UYÊN GIANG
Nov.19th, 2007


GỬI VŨ UYÊN GIANG
(Tặng VUG khi anh đi Chicago thăm song thân)


Ôi người nghệ sĩ thích ca ngâm!
Hai chữ tâm trong một chữ tâm
Về đó mùa thu đang gió lộng
Thổi từ hồ tới lạnh bên thềm

Người về bố mẹ chắc bình an
Tuổi tác gì hơn một chữ nhàn?
Hiếu đễ người xưa còn để lại,
Từ nay mừng hết cảnh lầm than

HÀ THƯỢNG NHÂN
9/11/2007


THU CHICAGO
Tặng Ninh Hạ Nguyễn Đức Tâm, Hà Phương Hoài, Lê Văn Chuộng, Bùi Ngọc Tuấn


Thành phố đầu thu rực nắng vàng
Lá bay xào xạc đón thu sang
Một mình đếm bước chân hoài niệm
Ngọn gió nào qua rất vội vàng?

Rượu rót mềm môi bạn hữu say
Càn khôn góp lại một phương này
Nghiêng vai định chuyển vòng nhân thế
Danh lợi bay vèo như khói mây!

Gác kiếm ta về say với trăng
Ngàn năm phong nguyệt giữa cung hằng
Gió bay tám hướng vùi tâm sự
Rụng lá thu vàng ai biết chăng?

Từng bước chân buồn theo lá khô
Chao ơi! Lòng ta đã mơ hồ
Nửa vòng trái đất như ngừng lại
Say giữa mùa trăng (*) một đáy mồ!!!

VŨ UYÊN GIANG
Chicago, 7 tháng 11/2007
(*) Tựa đề tập thơ của Bùi Ngọc Tuấn


Họa vận thơ người xưa:
THĂNG LONG HOÀI CỔ

Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Nghìn xưa gương cũ soi kim cổ
Cảnh ấy người đây luống đoạn trường

Nữ Sĩ Thanh Quan

Bài họa 1 : HỎI ĐƯỜNG
(Hình ảnh một thiền sư gậy trúc hỏi mây trắng qua đường)

Một kiếp nhân sinh một đấu trường
Lối về quê cũ mịt mù sương
Tiền thân mấy thuả mà lưu lạc
Hiện kiếp xoay vần gửi bóng dương
Giấc mộng ba sinh đà mấy chốc
Cái vòng danh lợi khéo bi thương
Tìm đâu hai chữ tiêu dao nhỉ?
Chỉ thấy mây bay trắng dặm trường

TIÊU LANG
Bài họa 2:
THỨC TRẮNG CANH TRƯỜNG

Ngày nao hào kiệt chốn sa trường?
Mái tóc bây giờ đã điểm sương
Nhớ lúc tung hoành trên trận tuyến
Nghĩ khi ngang dọc dưới tà dương
Đổi đời đất nước bao hờn tủi
Thay bậc cơ đồ một đáng thương
Rồi cũng bay vèo theo cát bụi
Ngồi đây ta thức trắng canh trường

VŨ UYÊN GIANG

Bài họa 3 : BIỂN DÂU LƯU LẠC

Biển dâu ai oán giấc miên trường
Lưu lạc bên trời bấy tuyết sương
Chênh chếch đầu non vầng nguyệt khuyết
Hắt hiu cuối bãi bóng tà dương
Giấc mơ đoàn tụ còn trăn trở
Chiến cuộc chia lìa vẫn thảm thương
Ôi những đời trai chưa thắm mộng
Vội đem thân thế bỏ sa trường

HỒ CÔNG TÂM November 7, 2007

Bài họa 4 : TÌNH TRƯỜNG

Chẳng phải binh đao cũng chiến trường,
Nên tình đang thắm lệ mờ sương
Nguồn ân soi kiếp nhờ cây phúc
Bể ái tiền căn cậy bóng dương
Cái sắc ai hay vòng tục lụy,
Chữ tài ta biết vị đau thương.
Phải chi duyên lứa do tao ngộ,
Chắc hẳn nhân gian hết đấu trường.

TÙNG LINH


Bài họa 5 : ĐƯỜNG VỀ

Duyên khởi vô minh kết đoạn trường,
Mộng đời hư ảo mịt mù sương.
Bờ mê mấy độ mà trôi giạt,
Cõi tạm bao lần gửi ánh dương?
Một thoáng cô đơn nào chợt thức,
Vô thường ai nhớ bởi đau thương.
Tháo tung phiền muộn về quê cũ
Ta vốn hư không chẳng hý trường.

THIÊN HƯ

Bài họa 6 :

THỨC TRẮNG SUỐT CANH TRƯỜNG

Chiến trường hoặc giả cũng đàm trường
Lối đó đi về mấy tuyết sương
Lìa bỏ quê nhà bao cách trở
Vui mừng đất tạm vạn trùng dương
Ngậm ngùi xứ lạ nhiều thay đổi
Vò võ quê nhà vẫn mến thương
Kim cổ chẳng qua là thế cả
Bạn ta thức trắng suốt canh trường.

HÀ THƯỢNG NHÂN


MỪNG HUYNH 90
(Để mừng nhà thơ Hà Thượng Nhân sinh nhật 90 tuổi)

Chẳng biết ngày sinh, cứ đụng ngày
Mừng huynh chín chục hãy cùng say
Rượu trà cạn hết bình ly ngã
Bong bóng lên rồi bong bóng bay
Cười nhé, lưu vong năm bảy sợi
Chơi đi, xướng họa một đôi bài
Lai rai chống gậy thêm con giáp
Trăm mấy cho người Mỹ biết tay.

NGÔ ĐÌNH CHƯƠNG

BÀI HỌA CỦA CỤ HÀ THƯỢNG NHÂN

Mới đó vượt qua mấy vạn ngày
Trăm năm tỉnh giấc một cơn say
Chẳng là con cá đua nhau lội
Không giống loài chim soải cánh bay
Thuận ý nói đâu thêm mấy vận
Vâng lời xin họa lại đôi bài
Còn ta còn bạn là vui chán
Thỉnh thoảng nhìn nhau nắm chặt tay

HÀ THƯỢNG NHÂN
BÀI HỌA CỦA VŨ UYÊN GIANG:

ĐƯỢC MẤY TAY ???

Đẹp nhất trần gian có một ngày
Ông lên chín chục cũng nên say
Vui đùa bằng hữu văn trôi nổi
Cợt nhả thế nhân thơ vút bay
Món nợ thi ca cùng bút mực
Phần quà nghệ thuật vẫn an bài
Bao người có phước như vầy nhỉ!
Chín chục theo ông được mấy tay?

VŨ UYÊN GIANG - Nov. 2007

MỪNG SINH NHẬT TRỄ THI HỮU NGUYỄN HÙNG

Thi hữu Nguyễn Hùng đã bảy mươi
Bạn bè tứ xứ chúc mừng vui
Đầy nhà con cháu lao xao nói
Chật bếp chị em rộn rã cười
Lúc trẻ lao đao lo vận nước
Khi già lận đận nghĩ cơ trời
Chúc ông thọ được nhiều năm nữa
Nối gót người xưa hơn chín mươi.

VŨ UYÊN GIANG
San Leandro, 2007


CỤ HÀ THƯỢNG NHÂN VIẾT VỀ
VŨ UYÊN GIANG


Lạ chưa là cái ông này,
Trong làng bút mực lúc mày lúc tao
Ông quen từ thấp tới cao
Văn thơ còn có kẻ nào không thân?
Thôi thì nếm đủ phong trần,
Làm anh bán phở di dân cũng huề

***

Thương từ gã Dê Húc Càn,
Thêm luôn cả bác Tú Gàn nhà ta
Lời văn tuy có thiết tha
Nếu không cay độc sao là đại danh?

***

Tú Cơm, Tú Mỡ, Tú Gàn
Tú nào thì cũng miễn bàn Tú Rua
Tấm lòng độc ác thì thua
Nhưng lời cay cú mà đùa vẫn vui

HÀ THƯỢNG NHÂN

THU

Chùa trên xóm núi tiếng chuông ngân
Chiều xuống mình ta nhẹ gót trần
Hương bưởi ngất ngây hồn thế tục
Trời thu bàng bạc đám phù vân
Tưởng đâu đã sạch điều ân oán
Ngẫm lại chưa xong gánh nợ nần
Vay trả làm sao ai tránh được
Mỉm cười quét lá mới vàng sân

NGÔ ĐÌNH CHƯƠNG

BÀI HỌA CỦA VŨ UYÊN GIANG:
QUÉT LÁ SÂN CHÙA

Đến chùa nghe vọng tiếng chuông ngân
Hồi hướng giác thân sạch bụi trần
Nhớ lại tiền căn trong cát bụi
Quên đi huyễn mộng giữa phù vân
Dốc tâm hỷ xả tiêu ân oán
Toàn ý từ bi sạch nợ nần
Kiếp trước vụng tu nên tạo nghiệp
Ngày nay xin quét lá ngoài sân

VŨ UYÊN GIANG
Chicago, Nov. 2007


KHÓC CHA


Trời mùa đông tâm hồn con giá lạnh
Con về đây nhưng cha đã đi rồi!
Không bao giờ còn thấy mặt cha tôi
Bao giọt lệ trào dâng trong khóe mắt
Lòng nghẹn ngào nhói đau như dao cắt
Chỉ vài ngày con đã mất cha yêu.
Nhớ ngày xưa, cha nghiêm khắc rất nhiều
Vì mong muốn con nên người hữu dụng
Công ơn cha như trời cao bể rộng
Như suối nguồn tuôn chảy mãi không ngừng
Nhớ nụ cười và khuôn mặt bao dung
Ôi tiếng nói ôn tồn khi giáo dục
Nhớ cả những ngọn roi vì lười học
Bởi ham vui với bè bạn gần nhà…
Biết làm sao kể lại hết tình cha?
Giọt nước mắt lăn dài trên gò má
Ngày hôm nay con không còn cha nữa
Tìm đâu ra hình bóng của cha tôi???

VŨ UYÊN GIANG
Chicago, 25-12-2007


HÌNH ẢNH CHA TÔI


Nhớ mãi người cha tôi dấu yêu
Người hay nhắc nhở đến Thôn Chiều (1)
Nơi cha sinh sống thời thơ dại
Có núi Ngăm và vách đất xiêu

Có ao cá rộng của Ông tôi
Thuở nhỏ tung tăng ở những đồi
Lò gạch của cha trên mẫu đất
Và bao lời hát nhạc Làng Tôi

Một trời kỷ niệm thuở xa xưa
Lời nói cha tôi vẫn chẳng mờ
Người kể Phủ Giày khi mở hội
Con nghe hoài vẫn thấy say sưa

Giờ mất cha rồi con mới biết
Cha hay nói chuyện những ngày qua
Là mong con hiểu về nơi cũ
Để muốn cho con nhớ đến quê

Vụ Bản quê tôi vẫn lối xưa
Thôn Chiều, Làng Mỏ ở gần kề (2)
Ai se duyên thắm bao năm tháng
Mà có một đời kết tóc tơ ?

VŨ UYÊN GIANG
Chicago, Dec.25, 2007
(1) Thôn Chiều thuộc xã Minh Tân, huyện Vụ Bản, Tỉnh Nam Định
(2) Quê của cha tôi ở Thôn Chiều cạnh Làng Mỏ của mẹ tôi


XUÂN VỀ

Đào khoe sắc thắm đón xuân về
Hớn hở đàn em áo mới khoe
Ông cụ đồ nho bầy giấy mực
Sân nhà rộn rã khúc xuân ca

VŨ UYÊN GIANG
California, Xuân Đinh Hợi



XUÂN ĐẾN

Mênh mông sương mỏng bên sườn núi
Lãng đãng mình ta với đất trời
Lộc non mới nhú trên cành lá
Xao xác mùa xuân đã đến nơi

VŨ UYÊN GIANG
San Leandro, CA Xuân Đinh Hợi


XUÂN THÌ

Mai vàng rực rỡ nở trong sân
Mới biết mùa xuân đến thật gần
Gió khẽ mơn man tà áo mới
Hây hây má đỏ gái đang xuân

VŨ UYÊN GIANG
Chicago, Xuân Mậu Tý



HẠNH PHÚC HOANG ĐƯỜNG 3


Đi trong phố vắng buổi chiều mưa
Ngập kín hồn bao kỷ niệm xưa
Phố cũ u buồn trong nỗi nhớ
Hắt hiu ngọn gió thổi giao mùa

Dặn lòng buông xả cơn phiền não
Tâm sẽ bình an không vấn vương
Còn mất, hơn thua là mộng ảo
Có, không – một thoáng cũng vô thường

Con phố trơ mình trong giá lạnh
Hàng cây ủ rũ đợi chờ ai
Ngọn đèn vàng vọt niềm hiu quạnh
Kiếp sống lâu dần cũng nhạt phai

Hạnh phúc trần gian không có thật
Tìm hoài một chiếc bóng bên đường
Đời như ngọn gió trôi đi mất
Đành vỡ tan tành theo gió sương?

Cứ ngỡ cuộc đời như giấc mộng
Đâu ngờ chỉ cõi tạm mà thôi
Giang tay đánh mất niềm hy vọng
Riêng chỉ mình ta với đất trời

VŨ UYÊN GIANG
(Chicago, Nov. 2007)


NGẪU CẢM


(Nhân thấy bức ảnh chụp các văn nhân thi sĩ Hà Thượng Nhân, Hải Bằng, Phan Bá Thụy Dương, Vũ Uyên Giang… trong "Trên Đường Biên Giới" của VUG
tái bản 2007)


Ngó ảnh thân bằng tóc bạc phơ
Ơ hay, ờ nhỉ, thật không ngờ !
Bảy-lăm, mới đó mà nay đã
Thất thập cổ lai, lẹ thế ơ ?!
Mài bút làm gươm, gươm chửa bén
Lấy thơ làm bạn, bạn làm ngơ !
Đèn khuya đối bóng thương thân phận
Ngày tháng lưu vong, mắt lệ mờ!

HỒ CÔNG TÂM
Austin, October 20, 2007



BÀI HỌA CỦA VŨ UYÊN GIANG:

THỜI GIAN BỤI PHỦ MỜ


Mái tóc ngày xưa đã bạc phơ
Chao ơi thay đổi chẳng ai ngờ
Loanh quanh một thoáng mà dâu bể
Luẩn quẩn trăm năm thế sự ơ?
Nửa kiếp nhân sinh còn ngoảnh lại
Một đời thế thái cũng quay ngơ
Muốn giang tay niú bao ngày cũ
Chỉ thấy thời gian bụi phủ mờ

VŨ UYÊN GIANG
Chicago, Nov.7th, 2007


Họa bài Ngẫu Cảm của Hồ Công Tâm


TUỔI GIÀ


Mây như là tóc bạc phơ phơ
Nhiều lúc soi gương… thật bất ngờ
Việc nước đôi khi dù bận bịu
Tuổi già không lẽ cứ thờ ơ
Nhìn vô thời trẻ càng tha thiết
Với lúc đầu xanh luống ngẩn ngơ
Thực sự chúng mình tuy lớn tuổi
Lưng còn vẫn thẳng, mắt chưa mờ

San Jose, Feb 8, 2008
HÀ THƯỢNG NHÂN


BÁN NƯỚC TỘI NÀY RỬA SẠCH KHÔNG???


Thưở trước tiền nhân đã nặng công
Mở mang bờ cõi, dựng non sông
Cha ông đổ máu giao truyền lại
Cháu chắt liều thân giữ vẹn toàn
Đầy tớ cộng kia dâng hải đảo
Bá quyền Tàu nọ lấn biên cương
Giận thay một lũ Lê Chiêu Thống
Bán nước tội này rửa sạch không?

VŨ UYÊN GIANG
San Leandro, Feb.17th 2008


BÀI HỌA CỦA CỤ HÀ THƯỢNG NHÂN

VIỆT CỘNG DÂNG HOÀNG - TRƯỜNG SA CHO TẦU

Tại sao cách mạng lại thành công?
Vì chữ nhân dân, chữ núi sông
Đội lốt nào ngờ nhiều trở ngại
Ngồi trên giờ thấy khó an toàn
Lừa dân, hại nước, tàn dân nước
Dối nước, buôn dân, khổ nước dân
Bỏ chữ độc tài xây dựng lại
May ra thu phục được nhân tâm

HÀ THƯỢNG NHÂN
Tháng 4/2008


HỊCH TRUYỀN

Tổ quốc lâm nguy – tiếng hịch truyền
Toàn dân cả nước thét loa vang
Dốc tâm hợp ý đem xương máu
Đoàn kết chung lòng giữ núi sông
Hận lũ cộng nô quân bán nước
Căm loài qủy đỏ bọn buôn dân
Phất cao chính nghĩa cờ dân chủ
Tám chục triệu dân một QUYẾT TÂM.

VŨ UYÊN GIANG
San Leandro, Feb.17th 2008


BÀI HỌA CỦA CỤ HÀ THƯỢNG NHÂN

HỊCH TRUYỀN

Bởi vì cách mạng giỏi tuyên truyền
Sau trước tuy rằng có tiếng vang
Được hết là bỏ tù lớn bé
Nào ngờ lại bán đứng non sông
Đã mong nhớ nước mong buôn nước
Chỉ biết lừa dân, xiết cổ dân
Chính nghĩa gì đâu phường bịp bợm
Lưu manh tự cổ vốn vô tâm

HÀ THƯỢNG NHÂN
Tháng 4 năm 2008


NAM ĐỊNH QUÊ TÔI


Làng tôi nhỏ lắm, tận xa xăm
Bên núi không cao, gọi Núi Ngăm
Có Hội Phủ Giày Bà Liễu Hạnh
Thôn Chiều, Vụ Bản, xã Minh Tân

Đi xuống Ý Yên qua núi Gôi
Từ quê lên tỉnh vượt bao đồi
Xã Khê khi trước treo đầu cộng
Tân Đệ bến đò nước chảy xuôi

Nam Định ngày xưa chỗ Cột Cờ
Lá bàng bay đỏ ối sân thu
Vườn hoa con cóc im lìm quá
Chợ Cửa Trường nay cũng vật vờ

Nhà máy sợi thoi những suốt tơ
Phố Paul Bert chạy xuống nhà thờ
Trường Saint Thomas bên hồ lớn (1)
Gợi lại cho ta thuở ấu thơ

Bến Thóc nhà tôi có mấy căn
Giặc vào cướp sạch hết không còn
Hai bàn tay trắng xuôi Nam sống
Tránh lũ cộng nô dạ héo hon.

Làng tôi vẫn ở chốn quê xưa
Dưới mái đình trai gái hẹn hò
Đã mất gốc đa bên phiến đá
Đầu làng heo hắt tiếng gà trưa.

Xa quá làng quê ở cố hương
Mịt mù thăm thẳm chốn tha phương
Nhớ về quê cũ lòng vương vấn
Gửi chút tình quê lẫn nhớ thương

VŨ UYÊN GIANG
(1) Trường La Salle Saint Thomas ở Nam Định nằm ngay cạnh Hồ Bảy Mẫu nơi tôi đã học Tiểu Học trước 1954


BÀI HỌA CỦA CỤ HÀ THƯỢNG NHÂN

NAM ĐỊNH QUÊ TÔI

Ngàn trùng nghe đã quá xa xăm
Mà nhớ làm sao, nhớ núi Ngăm
Tiếng trống chầu văn Bà Chúa Liễu
Cũng là Vụ Bản, cũng Minh Tân

Cũng Ý Yên đây, cũng núi Gôi
Vượt bao đường dốc núi xa đồi
Bóng cờ khởi nghĩa không còn nữa
Công nghiệp như là nước chảy xuôi

Lấy nước pha cho đậm sắc cờ
Vẫn vàng lá đổ ngợp mùa thu
Ta nghe ngày cũ bên hiên đợi
Em đứng chờ ai ngó giả vờ

Hơi thở em như những sợi tơ
Ảnh xưa một buổi đã tôn thờ
Bây giờ nhìn lại lòng đau đớn
Nay chẳng còn đâu lứa tuổi thơ

Bến Thóc nhà ai đó mấy căn?
Với hàng ngói đỏ đến nay còn
Bàn tay vẫn trắng ta về lại
Nghe tấm lòng xa lạ héo hon

Bỗng nhớ làng tôi, nhớ thuở xưa
Đêm trăng không có giọng ai hò
Cây đa, phiến đá không còn nữa
Chỉ tiếng gà pha loãng giấc trưa

Tưởng về thăm lại chốn quê hương
Bốn chục năm trời lạc bốn phương
Nay trở về đây không thấy lại
Những gì mình vẫn nhớ và thương.

HÀ THƯỢNG NHÂN
Tháng 4/2008


HÀ NỘI MÙA THU

Chiếc lá đầu thu rụng vội vàng
Bay theo con gió chuyển mùa sang
Hồ Gươm gợn sóng xanh biêng biếc
Hương khói Ngọc Sơn thơm dáng lan

Ghế đá hững hờ dưới bóng cây
Dáng ai ủ rũ mảnh vai gầy
Co ro gió rét thu vừa đến
Làm sổ tung vài sợi tóc mây

Chân bước lần theo những lá khô
Én bay xao xác ở ven hồ
Đường Lê Thái Tổ sao im vắng
Ta ngậm ngùi trong nỗi nhớ xưa

Hàng Đào ngơ ngác lúc vào thu
Gió vẫn bay bay lá mịt mù
Hàng Trống dường như xa lạ quá
Hàng Bài, Hàng Bạc thuở ươm mơ

Văn Miếu im lìm nét cổ phong
Nghìn xưa văn vật cõi Thăng Long
Những bia tiến sĩ chưa phai dấu
Khuê Các rêu loang lổ vách tường (1)

Ta về Hà Nội lúc vào thu
Tháp bút chơ vơ dưới lá cờ (2)
Đời sống chung quanh còn ảm đạm
Vì trong gông xích của lang hồ.

Bao giờ đất nước thôi sầu tủi
Bởi bọn sâu dân bán nước kia
Ngày ấy niềm vui tràn khóe mắt
Thôn làng lại rộn khúc hoan ca

VŨ UYÊN GIANG
Castro Valley, Tháng 10/2007
(1) Khuê Văn Các trong Quốc Tử Giám
(2) Cờ đuôi nheo của Đền Ngọc Sơn


BÀI HỌA CỦA CỤ HÀ THƯỢNG NHÂN

HÀ NỘI MÙA THU


Hà Nội mùa thu, lá đã vàng
Lá từ năm cũ lá bay sang
Hồ Gươm vẫn lạnh như lòng lạnh
Đền Ngọc Sơn giờ ngọn khói lan

Ta đứng chờ em dưới gốc cây
Ngày xưa áo mỏng giáng thu gầy
Ngày xưa tiếng guốc khua đầu phố
Tóc rối em là mấy sợi mây

Ờ nhỉ mùa thu vẫn lá khô
Thấy hoa sen muộn nở trong hồ
Ruà thiêng có nhớ gươm ngày cũ
Có thấy ngậm ngùi thương nhớ xưa?

Ngơ ngác Hàng Đào thu đã thu
Đã nghe vạt áo đẫm sương mù
Đã nghe đường phố chừng xa lạ
Có thấy mình đầy những ước mơ

Vẫn những ngày xưa những gốc phong
Ngày xưa vẫn vậy đất Thăng Long
Mà sao ta thấy lòng ta khác
Bức ảnh nào đây ở góc tường?

Bức ảnh nào đây giữa gió thu?
Đã nghe màu đỏ máu bay cờ
Tiếng ai Hà Nội bây giờ khác
Chút ít pha thêm giọng giặc hồ

Ta bỗng dưng không mà lại tủi
Ai bên hè phố những ai kia?
Ngày xưa nước mắt còn chưa cạn
Còn đổ hoài vì những khúc ca

HÀ THƯỢNG NHÂN
San Jose, Tháng 4 năm 2008

ÁNH TRĂNG TAN


Nhặt ánh trăng tan dưới gốc cây
Lả lơi huyền diệu lá thu gầy
Giọt trăng như vỡ thành trăm mảnh
Phai nhạt hương lan tỏa ngất ngây

Ánh trăng bàng bạc giữa hồ sen
Ta hát cuồng ca, gõ mạn thuyền
Ánh trăng đêm ấy trông mê hoặc
Như những nàng tiên thay áo xiêm

Ta giỡn vầng trăng say ngất ngây
Chiêm bao nhập thế cuộc tình này
Vẫy vùng trong ánh trăng huyền ảo
Rồi vỡ tan thành muôn áng mây

Muốn bắt nàng trăng giữ giữa ao
Cài then khóa cửa lối ra vào
Mình ta sống giữa trăng khuya ấy
Rồi hóa thân ra muôn ánh sao

Trăng vẫn là trăng thuở rất xưa
Ngàn năm vằng vặc chẳng lu mờ
Những đêm trăng sáng lung linh ấy
Ôm lấy vầng trăng say ước mơ

VŨ UYÊN GIANG
(San Leandro, Feb. 22, 2008. Đêm Trăng)

BÀI HỌA CỦA CỤ HÀ THƯỢNG NHÂN

Ánh trăng tan dưới những lùm cây
Tóc xỏa hương thơm giáng liễu gầy
Ngày ấy vầng trăng huyền ảo quá
Mắt nhìm đăm đắm vẻ thơ ngây

Đâu đây nghe thoảng lại mùi sen
Có phải mùa thu gió đẩy thuyền
Mang ánh trăng ngà đêm ấy nhỉ
Vô tình nghe cũng ướt y xiêm

Ôi vầng trăng có dáng ngây ngây
Ai biết em tôi giữa chốn này
Một ánh trăng khuya còn sót lại
Trên tà áo mỏng tóc như mây

Tôi ước mà sao chẳng ước ao
Con tàu năm cũ ở nơi nào
Vô tình chuyển bánh ra Hà Nội
Mời đón em về biết nói sao

Ngày xưa mới đó đã là xưa
Tấm ảnh giờ đây thấy đã mờ
Vạt áo em bay trong gió sớm
Anh mường tượng lại một cơn mơ

HÀ THƯỢNG NHÂN


SÀIGÒN TRONG NỖI NHỚ
(Tặng Tô Duy Khiêm, Nguyễn Thùy, Phổ Đức, Thanh Chương để nhớ những ngày Café Phấn Thông Vàng ở 43 Bis Nguyễn Thông, Saigon xưa.)


Hàng me ngả bóng đèn đường
Quán khuya lướt thướt phố phường giăng mưa
Phấn Thông Vàng thuở xa xưa
Bọn ta dăm đứa đọc thơ vang trời
Ngả nghiêng trong tiếng nói cười
Ly bia sủi bọt bên đời phù du
Lẫn trong mưa gió mịt mù
Tiếng đàn réo rắt như ru hồn người
Thoảng nghe từng giọt buồn rơi
Hư không vọng xuống những lời thiên thu

VŨ UYÊN GIANG
Castro Valley, ngày 6/3/2008

BÀI HỌA CỦA CỤ HÀ THƯỢNG NHÂN

SÀI GÒN TRONG NỖI NHỚ

Ta đi trên những nẻo đường
Ta đi vào lúc phố phường đổ mưa
Ngày xưa ừ nhỉ ngày xưa
Chưa say mà đã đọc thơ dưới trời
Chưa say mà ngả nghiêng cười
Lon bia chưa ấm cuộc đời lãng du
Ở đâu Đà Lạt sương mù
Ở đâu Thủ Đức giọng ru của người
Mưa rơi từng hạt mưa rơi
Tưởng nghe vọng mãi những lời sang thu

HÀ THƯỢNG NHÂN
San Jose, Tháng 4/2008


DƯỚI BÓNG CỜ XƯA

Nhớ thuở nào xưa dưới bóng cờ
Quân hành theo nhịp bước hùng ca
Thao trường tập luyện mồ hôi đổ
Thủ Đức lừng danh một võ khoa

Cư An là phải nhớ Tư Nguy
Một thuở tung hoành chẳng nghĩ suy
Đồi Tăng Nhơn Phú chiều buông xuống
Ra tuyến, đoàn quân cất bước đi

Chập chờn ánh đuốc Vũ Đình Trường
«Qùy Xuống Các Ngươi» rất kỷ cương
Tân khóa sinh qua thời huấn nhục
Alpha cổ áo lại lên đường

Dưới bóng cờ vàng ba sọc đỏ
Chia tay trường mẹ đến muôn phương
Chỗ nào cũng vẫn quê ta đó
Gìn giữ bình an, đẹp phố phường

Ngọn cờ đại nghĩa vẫn tung bay
Anh bạn đồng minh phủi trắng tay
Lén đâm lút cán sau lưng bạn
Bội phản anh em nhục nhã thay

Lưu vong ta vẫn nhớ ngày xưa
Một thuở hiên ngang dưới bóng cờ
Máu của tiền nhân bao kiếp trước
Nghìn năm gìn giữ chẳng phai mờ

VŨ UYÊN GIANG
Castro Valley, Mar. 2, 2008


BÀI HỌA CỦA HÀ THƯỢNG NHÂN
DƯỚI BÓNG CỜ XƯA


Đỏ vàng ai đứng dưới hàng cờ
Hùng tráng muôn dân hát khúc ca
Cảnh ấy ngày nay không có nữa
Đà thành, Thủ Đức mấy mươi khoa

Bây giờ mới biết đã lâm nguy
Sao những ngày xưa chẳng kịp suy
Mấy triệu dân lành đem đấu tố
Để cho cách mạng lót đường đi

Chỉ có thi đua với lập trường
Tưởng đâu sẽ xóa mọi biên cương
Hóa ra cắt đất và dâng biển
Nhục quá đi thôi những bước đường

Chính nghĩa luôn luôn còn mãi đó
Mỗi ngày mỗi sáng khắp mười phương
Chiều chiều nghe vẳng trong làn gió
Nguyền rủa toàn dân ghét những phường…

Cách mạng tưởng là chắp cánh bay
Giờ đây đã thấy trắng hai tay
Tương tàn huynh đệ bao năm nữa
Ai nhắc dùm nhau chuyện đổi thay

Anh cũng như tôi nhớ thuở xưa
Nhớ khi qùy xuống giữa hàng cờ
Nhớ rằng máu đổ vì Lê Mác
Chuyện ấy làm sao có thể mờ

HÀ THƯỢNG NHÂN
San Jose, Tháng 4/2008


NHỮNG THẰNG BẠN CŨ

(Tặng Đỗ Trọng Linh, Nguyễn Xuân Sơn, Nguyễn Mạnh Kym, Trần Nhật Hiền, Nguyễn Bình Trị, Nguyễn Đức Tiến, Nguyễn Minh Tý, Võ Quốc, Tiêu Nhơn Lạc và các bạn cùng Khóa 6/68 Thủ Đức)


Xa cách thời gian bốn chục năm
Bọn ta sống sót được bao thằng?
Rời Trường Thủ Đức khi còn trẻ
Gặp lại nhau đây thỏa nhớ nhung.

Uống cạn cùng tao ly rượu cay
Uống cho thằng bạn chết chưa say
Chiến chinh sát hại bao trai trẻ
Giặc giã cho đời thêm đắng cay

Hỡi Đỗ An Dương! Hỡi bạn bè!
Bao nhiêu thằng chết ở sơn khê?
Về đây gặp lại nhau lần nữa
Cuộc chiến tàn sao tim tái tê?

Xa Tăng Nhơn Phú xa bè bạn
Trăm ngả đời theo tiếng núi sông
Sống sót hào hùng trong lửa đạn
Gặp nhau mang thân phận lưu vong?

Hãy uống cho say mới hết buồn
Cho quên, quên hết mọi đau thương
Uống luôn dăm chén cho thằng chết
Bằng hữu gặp nhau cuối đoạn đường

Những thằng bạn cũ của ta ơi!
Ta chỉ còn nhau ở cuối đời
Một tình chiến hữu từ bao kiếp
Hãy gặp nhau và hãy cứ vui.

Đất nước vẫn là đất nước chung
Bạo quyền chỉ tựa những tên khùng
Huênh hoang khoác lác vì danh lợi
Thủ thuật tung ra bao mánh mung.

Kệ chúng ngủ yên trong dối gian
Bọn ta cương quyết giữ tinh thần
Tuổi già nhưng vững tâm bền chí
Vào trận tuy già cũng vẫn hăng.

Bốn mươi năm trước ở trường xưa
Thủ Đức, bọn ta dưới bóng cờ
Rồi chia trăm hướng đời chinh chiến
Gặp lại nhau đây tuổi đã già.

VŨ UYÊN GIANG
San Jose, Mar. 7th, 2008


BÀI HỌA CỦA CỤ HÀ THƯỢNG NHÂN


Gặp gỡ không hề kể tháng năm
Bây giờ sót lại một hai thằng
A! Trường Thủ Đức ngày xuân cũ
Cứ tưởng thời gian dệt gấm nhung

Cứ tưởng mềm môi chuốc chén cay
Bọn ta nào biết lúc nào say
Thử nghiêng mắt trắng nhìn thiên hạ
Có biết gì không chuyện đắng cay

Là bạn mà sao cứ tưởng bè
Ai ngờ đã rảo khắp sơn khê
Còn ngày tái ngộ còn thương nhớ
Còn xiết bàn tay tới tái tê

Bè bạn người xa người cách trở
Bao giờ về lại dựng non sông
Để nghe tiếng khóc trong đêm tối
Có phải em là gái vị vong?

Có phải rằng ta đã hết buồn
Khi lòng nhớ lại một tình thương
Những thằng bạn chết đầu sông bãi
Có khóc dùm nhau những bước đường

Ta ơi! Nào hỡi bạn bè ơi!
Về lại ôm nhau cuối cuộc đời
Chiến hữu? Phải mày là chiến hữu
Nghe ra ngào ngạt 1 niềm vui

Chung tấm poncho số kiếp chung
May ra tao chửa hóa ra khùng
Nếu mày còn nói câu danh lợi
Còn kể tao nghe những mánh mung

Thời gian ơi nhỉ lại không gian
Ta gọi nhau như đã thất thần
Ta gọi nhau về trong chén rượu,
Để mường tượng lúc vẫn hung hăng

Dẫu nhớ trường xưa nhớ lúc xưa
Khi ta đứng thẳng dưới hàng cờ
Khi mùa chinh chiến đang khai diễn
Có gặp nhau chăng lúc tuổi già ?

HÀ THƯỢNG NHÂN
San Jose, Tháng 4/2008


ĐẤT KHÁCH LÒNG NHƯ ĐANG CÓ MƯA

Nhớ quá Sàigon của thuở xưa
Ta từ Bưu Điện bước ngang qua
Nhà thờ Đức Mẹ nằm im lặng
Con phố Hàn Thuyên nắng nhạt nhòa

Bóng mát hàng cây gió nhẹ nhàng
Con đường Thống Nhất rộng thênh thang
Thổi tung tà áo bay tha thướt?
Cuống quýt chân ai bước vội vàng?

Người lính tiền phương của chiến tranh
Loanh quanh lạc lối giữa đô thành
Gặp em cô nữ sinh nho nhỏ
Cùng đứng trú mưa dưới mái hiên

Ánh mắt nai tơ ngó thật hiền
Nụ cười tươi tắn đóa hoa tiên
Hồn anh đắm đuối sa trong mắt
Lính chiến nhưng tim lại rất mềm

Hai đứa ngồi trong quán Mai Hương
Nhìn ra khung cảnh ở bên đường
Giòng xe tấp nập tuôn đi mãi
Tiền tuyến về thăm em hậu phương

Cuộc đời như nước chảy hoa trôi
Từ đấy chúng ta xa cách đôi
Bàn cờ thua cuộc từ hôm ấy
Kẻ ở lao lung, kẻ cuối trời

Nhớ đến Sàigon một thuở xưa
Buổi chiều nhạt nắng lại rơi mưa
Gọi thầm khe khẽ tên ai đó
Đất khách trong lòng đang đổ mưa.

VŨ UYÊN GIANG
Castro Valley, 10th, 3, 2008


BÀI HỌA CỦA CỤ HÀ THƯỢNG NHÂN

ĐẤT KHÁCH LÒNG NHƯ ĐANG CÓ MƯA

Saigon thuở ấy những ngày xưa
Ta mới từ Bưu điện tạt qua
Đức Mẹ nhà thờ im lặng quá
Con phố Hàn Thuyên bóng đã nhòa

Gió mát trong cây thổi nhịp nhàng
Gió đường đại lộ rộng thênh thang
Áo em qua đã bay theo gió
Gió cũng theo em rụng lá vàng

Người lính từ xa cuộc đấu tranh
Tự nhiên lại ở giữa đô thành
Mắt em lơ đãng nhìn ai nhỉ
Có phải nhìn anh đứng dưới hiên

Đôi mắt nai tơ, mắt dịu hiền
Phải rằng ta gặp một người tiên
Phải hồn anh đến trong đôi mắt
Để nụ hôn trên má thật mềm

Hôm nay ngồi quán của Mai Hương
Mai đã xa nhau vạn dặm đường
Xuôi ngược dù xe còn tấp nập
Dù đời đã định sẵn muôn phương

Dù nữa thời gian cứ việc trôi
Chúng mình sao lại chẳng chung đôi
Em ơi! Anh đã thua từ đó
Đừng trách ai riêng trách đất trời

Sài gòn lại nhớ những ngày xưa
Nhớ nắng thiêu da, nhớ trận mưa
Nhung nhớ em ơi! Em có biết
Nhớ em vạt áo dưới trời mưa

HÀ THƯỢNG NHÂN


UỐNG RƯỢU Ở CHỢ CŨ
(Nhớ khi nhậu ở Chơ Cũ với Phước, Toản và Thanh năm 1971)


Chủ quán! Cho ta thêm mấy chai
Dăm thằng lính chiến nhậu lai rai
Rời xa mặt trận mù binh lửa
Mới uống bấy nhiêu chẳng lẽ say?

Hãy uống thật say cho lãng quên
Cuộc đời vốn dĩ lắm ưu phiền
Gót giầy sô (1) đạp bao vùng địch
Xác giặc phơi trên khắp mọi miền

Ly này: - Thằng bạn chết đêm qua.
Chinh chiến điêu linh thật chẳng ngờ
Còn ly này nữa cho thằng khác
Vừa cụt tay chân sống vật vờ

Mấy ngày mày lội chiến khu D
Tao ở Svay Rieng cũng mới về
Thằng Toản tuyến đầu nơi Quảng Trị
Gặp nhau mà cứ tưởng trong mơ

Hãy say! Say hết một đêm nay
Lính chiến; cần chi! Được mấy ngày?
Cứ sống giờ nào vui cái đã
Mai này không biết đến phiên ai?

Castro Valley 11th ,3 - 2008
(1) giày saut


BÀI HỌA CỦA CỤ HÀ THƯỢNG NHÂN

Rượu kể gì đâu mấy chục chai?
Đem đây tất cả đều all right
Anh em phải hiểu nay ngày nghỉ
Có phép lẽ nào không thể say?

Có phép lẽ nào không thể quên?
Rượu vì ta sẽ đốt ưu phiền
Mai kia lại tỏa ra vùng địch,
Gót bốt đờ sô khắp mọi miền

Bạn mình mấy đứa chết đêm qua
Nó chết mà đâu có thể ngờ;
Thằng ấy cụt tay thằng khác nữa
Chúng ông như những kiếp con vờ

Ban ngày lặn lội chiến khu D
Nào có ngờ đâu lại trở về
Mấy đứa hy sinh ngoài Quảng Trị
Ngồi đây mà cứ tưởng đang mê

Chúng ông đâu có biết đêm này
Gặp quán ông anh cũng rượu say
Xin cám ơn người vui chốc lát
Rồi đây chẳng biết tới lần ai?

HÀ THƯỢNG NHÂN Tháng 4/2008


SUỐI ĐÁ

(Tặng Đại úy Minh Đầu bò, Đại Đội trưởng ĐPQ trú đóng ở Suối Đá, Phước Hội, Quận Phú Khương, Tây Ninh và những người lính trong Toán Săn VC của Phòng 2/QĐ 3)


Suối Đá nằm trơ trụi mé đồi
Chập chùng rừng kín nẻo xa xôi
Bà Đen chân núi bao hung hiểm
Đại đội địa phương chẳng mấy người

Ta đến đóng quân với tụi bay
Cùng nhau nhậu đế lúc ban ngày
Màn đêm buông xuống lao vào giặc
Thả toán vô rừng buổi tối nay

Những thằng lính chiến không quân số
Sống chết xem thường mỗi chuyến đi
Đánh giặc như đùa vui rất ngộ
Dăm ngày xâm nhập tưởng trò chơi







Từ Ấp Khe Dol báo máy về (1)
Di hành sang Lộ Đỏ, Bàu Lê
Gặp ngay bọn giặc nằm an dưỡng (2)
Bám sát mục tiêu chớ chém vè

Hoàn tất ra ngay điểm đón quân
Trực thăng phóng tới bốc đi nhanh
Lại ngồi nhậu rượu ba xi đế
Như chẳng hề chi, chẳng ngại ngần

Một toán quân như những bóng ma
Ban ngày nhậu nhẹt thấy bê tha
Toán săn bắt cộng đêm xâm nhập
Rừng núi Tây Ninh mới thật nhà.

VŨ UYÊN GIANG
(1) Ấp Khe Dol nằm ở Bắc Núi Bà Đen, cạnh lộ 243 do VC chiếm đóng
(2) Đám quân của Công trường 5 VC do tên Út Liêm làm Tư Lệnh trú đóng ở Bắc Núi Bà Đen, Tây Ninh


GÓC PHỐ SAIGON XƯA


Em đi phố nhỏ âm thầm
Góc Cao Thắng có dư âm cung đàn
Chiều Phan Thanh Giản lang thang
Nắng như heo hắt nhuộm vàng bước chân
Em qua hồng gót chân trần
Dường như nỗi nhớ lan dần trong anh
Bên Lê Văn Duyệt loanh quanh
Nhà em hoa giấy đỏ cành trước sân
Gót ai khẽ bước, phân vân
Rồi e ấp ngó sợ anh theo vào
Trong ta chợt hiện chiêm bao
Hóa con chim nhỏ nấp sau dáng nàng
Bên vai lòng đã mơ màng
Chao ơi! Hồn lỡ sa sang mắt nàng.
Ươm mơ từ thuở hồng hoang
Gối chăn nhuộm ánh trăng vàng ngủ say
Vương vương vài sợi tóc mây
Gửi hương theo gió heo may nhớ người
Nửa khuya tâm sự chơi vơi
Thênh thang phố cũ bên đời quạnh hiu

VŨ UYÊN GIANG
(Castro Valley, Mar.8, 2008)

BÀI HỌA CỦA CỤ HÀ THƯỢNG NHÂN


GÓC PHỐ SAIGON XƯA

Dưới chân guốc gõ thì thầm
Phải đây là tiếng trúc âm đang đàn
Buổi chiều trở gót lang thang
Gió như đuổi kịp vội vàng đôi chân
Dọc ngang trên nẻo đường trần
Hình như em cũng dần dần quên anh
Bước đi từng bước quẩn quanh
Mấy bông hoa giấy trên cành trong sân
Sợ sao là ánh bạch vân
Chín tầng thăm thẳm theo anh có vào
Cuộc đời liệu có là bao
Bao giờ ta được đứng sau lưng nàng
Tưởng như con bướm bay loang
Hóa ra là ánh trăng vàng đang say
Hóa ra là mớ tóc mây
Nhờ ta gửi đến cơ may gặp người
Nửa chừng thương nhớ chơi vơi
Thoảng nghe cơn gió cuộc đời hiu hiu

HÀ THƯỢNG NHÂN
4-2008

DƯ ÂM

Nửa khuya thức giấc nhớ người
Trong dư âm cũ nghe chơi vơi buồn
Ngoài hiên từng hạt mưa tuôn
Thanh âm tí tách gọi hồn phương xa
Chao ơi! Nhung nhớ nhạt nhòa
Con tim héo hắt trong ta vật vờ
Nhớ thương rồi cũng ơ thờ
Niềm đau dĩ vãng còn chờ hóa thân.
Tình xa, nỗi nhớ thật gần
Hồn đau như có trăm ngàn xót xa


VŨ UYÊN GIANG
Mar. 13, 2008

BÀI HỌA CỦA CỤ HÀ THƯỢNG NHÂN

DƯ ÂM

Nghe dư âm cũ chơi vơi
Nửa đêm thức giấc nhớ người làm sao
Ngoài kia mưa đổ rạt rào
Dư âm tí tách dội vào lòng ta
Bao nhiêu những chuyện đã qua
Làm sao có thể nhạt nhòa được đây ?
Thời gian ăm ắp đã dầy
Khó mà quên được những ngày nguy nan
Tự nhiên chợt nhớ muôn vàn
Nghĩ thôi bao chuyện tương tàn xót xa

HÀ THƯỢNG NHÂN


NGHE GIỌT SẦU RƠI

Ngoài song từng giọt sầu rơi
Nghe như héo hắt bồi hồi lòng ta
Nỗi niềm xưa đã nhạt nhòa
Nghìn tâm sự cũng phôi pha ít nhiều
Nửa khuya mưa gió tiêu điều
Tiếng xa âm vọng cây xiêu bóng mờ
Thoảng như ai gọi mơ hồ
Phù sinh mộng dữ ơ thờ nẻo xa
Khởi đi từ cõi ta bà,
Hạt sầu rụng xuống vỡ òa niềm đau

VŨ UYÊN GIANG
Mar. 13, 2008


BÀI HỌA CỦA CỤ HÀ THƯỢNG NHÂN
NGHE GIỌT SẦU RƠI

Lắng nghe từng giọt mưa rơi
Bỗng nhiên mà thấy bồi hồi xót xa
Làm sao có thể phai nhòa
Dù cho tâm sự phôi pha đã nhiều
Ngoài kia mưa gió đủ điều
Căn nhà lá cũ cũng xiêu bóng mờ
Dù đi mười vạn sông hồ
Nửa khuya chuông của nhà thờ nẻo xa
Ơi em tấm áo bà ba
Vớt làn nước đục vỡ òa cơn đau

HÀ THƯỢNG NHÂN
4-2008


NHƯ TIẾNG BUỒN RƠI


Hỡi Năm, hỡi Hải, hỡi Dương ơi! (1)
Những bạn bè xưa dâng hiến đời
Để phục vụ quê hương đất nước
Bước chân trên vạn nẻo xa xôi.

Tuổi trẻ lao vào cuộc chiến tranh
Một phen cùng giã biệt đô thành
Đem thân vào những nơi hung hiểm
Mạng sống treo trên sợi chỉ mành

Có mặt ở khắp vùng hỏa tuyến
Hố Bò, Hát Dịch, Dương Minh Châu (2)
Mật khu Việt cộng chân in dấu
Đánh tận vào hang ổ Móc Câu (3)

Mi Mốt, Kratié giặc cuống cuồng (4)
Thằng 5 hết vía vội mau chuồn (5)
Quay về An Lộc ta nghênh địch
Trấn thủ Bình Long, mưa pháo tuôn

Cuộc chiến tàn trong tiếng nghẹn ngào
Hy sinh xương máu chẳng ra sao
Miền Nam bức tử ôi đau đớn!
Giữa lúc tinh thần chiến đấu cao

Giờ sống tha hương nhớ bạn tôi
Mỗi thằng một chỗ ở xa xôi
Những thằng đã chết bao năm trước
Như tiếng buồn rơi ở cuối đời

VŨ UYÊN GIANG
(1) Những người bạn cùng Khóa Sĩ quan Trừ Bị Thủ Đức với tác giả đã tử trận trong chiến tranh
(2) Những mật khu cua VC ở Miền Đông
(3) Móc Câu là một địa danh ngay biên giới Việt-Miên ở Tây Ninh
(4) Đồn điền Mimot ở Kampuchia và Tỉnh Kratié nằm cạnh sông Mekong gần Kampong Cham
(5) Công trường 5 của Việt cộng


SUỐI CAO, TRẢNG BÀNG


Ta ở Gia Bình uống rượu khan
Mấy thằng Việt cộng dám làm càn
Tấn công vào Suối Cao đêm trước
Trong ấp thiệt đi mấy Nghĩa quân

Hành quân trên Tỉnh lộ 13
Vượt rạch Tiên Sanh tiến bước qua
Băng xóm Trảng Cầy vô trận tuyến
Đồn điền Lê Thạnh Đức bên kia

Tái chiếm lại đồn binh Suối Cao
Hố Bò hết lối giặc ra vào
Lai rai nhậu đế cùng khô mực
Cuộc sống chinh nhân biết nói sao?

Về lại Trảng Bàng nắng đã tàn
Em qua chợ quận tóc quăn quăn
Dáng đi thoăn thoắt trên đường phố
Nhún nhẩy niềm vui theo bước chân

Ta ngồi trong quán uống la de
Mắt vẫn nhìn theo bước vỉa hè
Chợt cười khe khẽ khi thầm nghĩ
Lựu đạn trong lòng thế mới ghê. (1)

Lại tiến quân vào đánh Suối Sâu
Diệt thằng biệt động N.10 mau (2)
Mười Kiều chạy vắt giò lên cổ (3)
An Tịnh, Tịnh Phong giặc cúi đầu

Lính chiến bao ngày hỏa tuyến xa
Tiền đồn heo hút tháng ngày qua
Hỏa châu soi sáng đêm trừng mắt
Lòng thấy bâng khuâng chợt nhớ nhà

VŨ UYÊN GIANG
(1) Ở Trảng Bàng mấy cô gái thường hay giấu lựu đạn trong giỏ xách khi đi đến những nơi có đông lính VNCH ăn nhậu liền quăng lựu đạn sát hại
(2) Đơn vị biệt động thành N.10 của đặc công VC thuộc I.4 (Quân Khu I.4 của VC gồm Saigon, Chợ Lớn và Gia Định)
(3) Mười Kiều tên thật là Võ Thị Kiều, nữ cán binh VC chỉ huy đơn vị biệt động N.10 là đơn vị đã đánh chất nổ Phòng Trà Tự Do ở Saigon


TÀ ÁO KIÊU SA

Gió khẽ mơn man trên khóm hoa
Làm tung tà áo mỏng kiêu sa
Lộ ra một mảng eo thon trắng
Chết giấc bao chàng mới thấy qua

Từng bước chân em rộn rã vui
Cỏ hoa cùng hớn hở đua cười
Một trời thơ mộng như bừng nở
Mặt đã hồng lên nét rất tươi

Phố quận chiều nay em bước qua
Có dăm hạt bụi vướng chân ngà
Tóc bay phơ phất theo làn gió
Vạt áo mùa xuân vui thướt tha

Gió khẽ mơ hồ theo gót chân
Lả lơi hoa bướm lạc gian trần
Xin làm hạt bụi theo em mãi
Một kiếp phù sinh đến thật gần

Tà áo kiêu sa theo gió bay
Ta không hề uống vẫn như say
Men tình chất ngất từ ôm ấy
Rộn rã lòng như có rượu cay

VŨ UYÊN GIANG
San Francisco, Mar.2008


NIỀM VUI THÁI HÒA

Có những ngày vui thuở thái hòa
Em ngồi tựa cửa nhớ phương xa
Một trời hoa bướm tưng bừng nở
Lòng cũng dậy lên tiếng hát ca

Ta ở bên trời theo gió sang
Ngàn năm vơ vẩn với cung hằng
Mong thành mây trắng bay theo gió
Mộng ước mơ hồ dưới ánh trăng

Thánh thót bên tai khúc nguyệt cầm
Nghe như dìu dặt những thanh âm
Tiếng ai khẽ hát sao huyền hoặc
Như giọt sầu rơi xuống nốt trầm





Ta vẫn bên đời vui với trăng
Hóa thân thành cụm mây lang thang
Say trong men rượu ân tình đó
Bay đến bên em rất nhẹ nhàng

Ôi những mùa xuân thật thái hòa
Ta về ươm gối mộng bay xa
Em ngồi bên ấy trời thăm thẳm
Ngắm ánh sao rơi mắt nhạt nhòa

Nỗi nhớ nào trào dâng mắt cay
Ta đang lãng đãng giữa men say
Nhớ bao ngày cũ thời tao loạn
Một thoáng mong manh tợ áng mây

Ta vỡ tan trong giấc ngủ êm
Cánh hoa nào nở thật ngoan hiền
Rồi bay tan tác theo chiều gió
Bỏ lại mình ta trong bóng đêm.

VŨ UYÊN GIANG
Chicago, 28 tháng 3/2008


ẨN DỤ CỦA ĐỜI TA


Rồi cũng như loài chim sẽ bay
Mùa đông trốn tuyết đến phương này
Hồn xanh xao ngủ vùi trong mộng
Và đắm chìm qua một giấc say

Men rượu nào cho ta đắng cay?
Mềm môi rót mãi những ly đầy
Vùi chôn sầu tủi vào quên lãng
Rồi bỗng tan vèo như áng mây

Ẩn dụ nào cho tuổi của ta?
Trời cao thăm thẳm mịt mù xa
Đã nghe đâu đó từ muôn kiếp
Ai mới vừa lên tiếng hát ca?

Ta sẽ quay về vui với trăng
Buông xuôi hư ảo để lang thang
Vui bên ly rượu, bên bằng hữu
Bỏ lại sau lưng những bẽ bàng.

VŨ UYÊN GIANG
Chicago, 4 tháng 4 năm 2008


ẨN DỤ CHO ĐỜI


Rồi cũng phai tàn như cỏ cây
Đời kia ngắn ngủi được bao ngày?
Sắc hương vẫn chỉ là hư ảo
Sống chết coi thường như bóng mây

Ngọn gió mơ hồ bay bốn phương
Trần gian là một cõi vô thường
Người đời chìm đắm trong huyền hoặc
Ngàn kiếp trầm luân bởi luyến thương

Bể khổ muôn loài vẫn ngủ mê
Thế nhân chẳng thấy lối đi về
Mau mau ra khỏi cơn mộng dữ
Tìm nẻo an bình phá chấp kia

Muốn được vãng sanh ở cuối đời
Hãy quay về bến giác đi thôi
Bờ mê thức tỉnh vòng bi lụy
Gác bỏ vô minh, sân hận vơi.

VŨ UYÊN GIANG
Castro Valley, 4/2008


ẨN DỤ CHO NGƯỜI


Đời cũng chỉ như cành khô lá mục
Thương cho người mê đắm giữa phù vân
Thương cho người khi tóc trắng đầu sân
Ôm hư ảo chìm dần theo chiếc bóng
Hạnh phúc chỉ là phù du viễn mộng
Đã bay đi theo ngọn gió muôn phương
Cuộc tình tan trong hư ảo hoang đường
Vốn không thật vì đời người không thật
Tình xưa cũ đành đoạn tan đi mất
Nên tình buồn trĩu nặng ở đôi vai
Tàn cuộc vui là tơi tả hình hài
Còn sót lại một vài cơn ảo mông
Ta mải vui bên phương trời cao rộng
Nên nhìn đời thanh thản tựa chiêm bao
Ôi niềm tin vỡ vụn tự hôm nào
Thân gió lộng đời ta lồng lộng gió
Người mãi mãi đi tìm trong hoài cổ
Ta quay lưng vui một kiếp sông hồ.

VŨ UYÊN GIANG
Castro Valley, 17 tháng 4 nămm 2008