Wednesday, October 14, 2009

Tập thơ CHIẾN TRƯỜNG XƯA của Vũ Uyên Giang - Phần 2

Phần 2:

Những bài thơ viết sau khi cuộc chiến tàn năm 1975

TRÊN ĐƯỜNG ĐI XUỐNG VÙNG 4

(Tặng Đặng Hoàng Long để nhớ lúc hai thằng lái xe chạy xuống Vùng 4 và mỗi người vẫn giấu 1 khẩu P.38 dưới yên xe)


Tao với mày hối hả chạy thật mau
Lòng bối rối mang nỗi sầu thất trận
Mày dặn tao: ”Phải hết lòng cẩn thận,
Bởi chung quanh dầy đặc những cộng quân”
Chúng hớn hở mừng “đại thắng mùa xuân”
Màu cờ máu, đỏ từ quê lên tỉnh
Tao với mày mang trong lòng người lính
Cuộc chiến sau cùng trĩu nặng bi thương
Lệnh đầu hàng nghe ra thật bàng hoàng
Sao có thể thua khi mình còn chiến đấu?
Lòng hờn căm nhìn lá cờ rực máu
Nỗi nhục nào hơn nỗi nhục hôm nay?
Trên đường về Vùng 4 giặc tràn đầy
Ta xen địch, đi không thèm nhìn chúng
Trên nệm ghế vẫn giấu 2 khẩu súng
Giữ để cùng tự xử lúc nguy nan
Giữ để phòng khi bọn giặc làm càn
Trước khi chết cũng vài thằng cùng chết!

VŨ UYÊN GIANG
Bến Lức (Long An) ngày 1 tháng 5 năm 1975


NHÌN GIÒNG SÔNG SÀIGON


Ta ngồi lặng bên bờ sông vắng
Những nỗi đau như sóng nhấp nhô
Như xác thân chết lặng mỗi giờ
Nhìn giòng nước vật vờ im ắng

Chiều Sàigon sau ngày sụp đổ
Đã mất tên là mất cả đời
Nước vẫn lặng lờ trôi mãi xuôi
Thầm mơ ước trở thành thanh gỗ

Trôi đi mất về miền vô tận
Tiếc cánh chim nào bay chốn xa?
Nắng cuối trời nước mắt nhạt nhòa
Thân chiến bại nên buồn ngơ ngẩn

Ôi mất nước, đời ta đã mất!
Bến Bạch Đằng như cũng buồn lây
Ngày qua đi theo bóng mây bay
Rồi chết lịm khi hồn dãy chết

VŨ UYÊN GIANG
Bến Bạch Đằng Sàigon 10/5/1975


ĐI ĐẢO LƯU ĐẦY

1. Ở Thành Ông Năm Hốc Môn:

Âm u bóng tối vây quanh
Tạ từ xao xác, thôi đành chia tay
Trót mang số phận lưu đầy
Thân không án tích lòng xây oán thù.

2. Ở Tân Cảng Sàigòn:

Nối đuôi đi xuống cầu tầu
Dăm ba họng súng phía sau gầm gừ
Sàigòn! Thôi nhé giã từ,
Trời cao biển rộng, thân tù bơ vơ.

3. Dưới Hầm Tàu HQ 403:

Ngổn ngang một lũ “hàng” (1) người
Nằm, ngồi, xếp lớp cá mòi chen chân
Lều bều những nước cùng phân
Kiếp tù với thú cũng gần giống nhau

4. Đến Đảo Phú Quốc:

Chung quanh biển rộng mênh mông
Làm thân cá chậu chim lồng từ đây
Trời cao hun hút chân mây
Vác cây thánh giá lưu đầy hoang mang
Mỗi ngày qua lại ngỡ ngàng
Một bầy tiền sử võ vàng xác thân


VŨ UYÊN GIANG
(Viết cuối năm 1976 trên chuyến tàu há mồm đi lưu đầy ở đảo Phú Quốc)
(1) VC gọi tù nhân sĩ quan QLVNCH là hàng

BÀI HỌA CỦA Cụ HÀ THƯỢNG NHÂN

CHUYẾN ĐI ĐẢO LƯU ĐẦY

1. Từ Giã Hốc Môn:

Gặp nhau cứ mãi loanh quanh
Nhìn không kịp nói cũng đành nắm tay
Nghĩ thôi ly nước đã đầy
Dẫu không muốn rót cũng xây nỗi thù

2. Tại Tân Cảng Saigon:

Chen chân xuống vội cầu tầu
Đã nghe cán bộ trước sau gầm gừ
Lấy ai mà nói giã từ
Chân trời góc bể đi tù bá vơ.

3. Dưới hầm tầu HQ.503

Chúng ta còn có là người
Hay là mấy lớp cá mòi quấn chân
Những là bê bết tro phân
Người hay cầm thú cũng gần như nhau

4. Đến An Thới.

Trời cao biển cả mênh mông
Ai đem mình nhốt vào lồng từ đây
Ngẩng nhìn man mác trời mây
Chưa nghe roi vọt đã đầy hoang mang
Bạn mình ai đó ngỡ ngàng
Tưởng đâu tiền sử da vàng tủi thân.

HÀ THƯỢNG NHÂN


EM BÉ LONG GIAO
(Để ghi ơn cháu bé gái ở trên rẫy gần trại tù Long Giao)


Cháu bảy tuổi sao không đến lớp?
Mái trường kia chẳng hợp với em?
Hay vì gốc Ngụy cho nên
Em không được học, phải siêng việc nhà?

Phụ cha mẹ ra trông coi rẫy
Bảy tuổi đầu phải đẩy xe trâu
Phải chăm bón các hoa màu
Phải đi làm cỏ, xách gầu tưới rau

Thân gầy guộc thiếu ăn lam lũ
Làm suốt ngày chẳng đủ miếng ăn
Bởi vì Việt cộng bất nhân
Chúng thu vét sạch, người dân còn gì?

*

Em hỏi: “Chú ơi! Có đói không?
Bọn kia có đánh chú hay chăng?
Chú ơi! Cha cháu cùng là lính
Chú hãy ngồi đây nghỉ biết không?”


Nghe nói, chúng tôi mủi cả lòng
Từ khi Nam Việt mất non sông
Giặc kia phương bắc gieo sầu oán
Dân ở Miền Nam chịu thảm thương

Em lấy cơm cho các chú ăn
Còn đem chuối chín dắt lưng quần
“Chú ơi cứ giấu nơi này nhé!
Đừng sợ! Mang về để tối ăn”

Ồ này em bé nhỏ Long Giao
Em nói làm tôi cũng nghẹn ngào
Hổ thẹn vì không tròn trách nhiệm
Khiến toàn dân Việt khổ làm sao

Nhớ mãi thâm ân em bé ơi!
Của tuy nhỏ nhặt, nghĩa muôn đời
Mang trong tâm trí khi còn sống
Chỉ mỗi tên em quên hỏi thôi!

VŨ UYÊN GIANG
Viết ở Long Giao năm 1977, khi cùng Trần Ngọc Quán đi vác củi trên một đồi chuối do một em bé con 1 người quân nhân VNCH đang làm rẫy trên đồi. Em bé khoảng 7 tuổi không được Việt cộng cho đi học vì gốc gác là con lính VNCH. Em đã cho chúng tôi thực phẩm và đã nhét chuối cho chúng tôi. Tôi không biết tên em nhưng hết lòng tri ân em bé.


TIỄN BẠN LƯU ĐẦY ĐẤT BẮC

Gửi bạn tôi ký giả Trần Ninh Bình (tên thật là Trần Ngọc Tự) khi bạn bị đi đầy đất Bắc 1977

Mày đi nặng gánh lao tù
Gió mưa Việt Bắc mịt mù từ đây
Còn tao heo hút chân mây
Khổ sai lao dịch dưới tay vượn người
Mày đi môi vẫn mỉm cười
Cỏ cây rũ rượi khóc lời chia xa.

VŨ UYÊN GIANG
(Viết 1977 ở Long Giao khi tiễn Trần Ngọc Tự đi Bắc)


HÀ THƯỢNG NHÂN họa bài thơ :

TIỄN BẠN LƯU ĐÀY ĐẤT BẮC

Mày tù tao cũng là tù
Là mưa hay lại sương mù nơi đây
Nhớ ơi ! mái tóc như mây
Ra ta vẫn nắm bàn tay: vẫn người
Mày đi tao bỗng cả cười
Nhớ chưa kịp khóc một lời đã xa

HÀ THƯỢNG NHÂN 12-09-06

BÀI HỌA :

(Bài thơ Tiễn Bạn Lưu Đầy Đất Bắc của Vũ Uyên Giang, ngắn gọn, nhưng tác giả đã thổ lộ đầy đủ khí phách hiên ngang của người Quân nhân QLVNCH, sự đầy đọa và gian giảo của Việt cộng. Lời thơ rung cảm, ngậm ngùi. Nên tôi có vài câu thơ họa, tâm tình cùng tác giả)

Tiễn chân bạn đổi lao tù
Bắc Nam thăm thẳm mịt mù từ đây
Cuồng phong nghìn ngịt trời mây
Người người thảm đạm bởi tay vượn người
Sa cơ, lao lý vẫn cười
Chim lồng, tha thiết từng lời chia xa.

NGUYỄN LỘC YÊN - Chicago, 2008


XUÂN Ở LONG GIAO
(Tặng bạn tôi nhà văn quân đội Dương Hùng Cường)


Heo hút đồi cao bụi phủ mờ
Những thân còm cõi dáng chơ vơ
Bốn vòng gai sắc như dao nhọn
Đâm suốt hồn ai nhát hững hờ?

Đã mấy mùa xuân trong đớn đau
Cao su vàng lá úa u sầu
Bọn ta chung kiếp tù tăm tối
Ngày tháng chừng trôi qua rất lâu

Từ đáy ngục sâu gặp cố tri
Cầm tay chẳng biết nói năng chi
Rưng rưng khoé mắt đôi giòng lệ
Tủi hận vương đầy trên lối đi

Cùng đón xuân sang giữa ngục tù
Chẳng trà, chẳng bánh, chẳng hạt dưa
Uống ly nước lạnh thay men rượu
Rồi cũng rền vang mẩu chuyện xưa.

VŨ UYÊN GIANG
(Long Giao 1978. Xuân Mậu Ngọ ngồi với Dương Hùng Cường trong tù)

HÀ THƯỢNG NHÂN
họa bài thơ :

XUÂN Ở LONG GIAO

Chẳng khóc làm sao mắt cũng mờ
Có người tiền sử đứng bơ vơ
Kẽm gai vây giữa bờ sinh tử
Cửa sổ phòng em chắc khép hờ

Chắc hẳn em còn muôn nỗi đau
Mới Xuân sao lại ngẩn ngơ sầu
Long giao gần gũi Sài gòn thế
Ta mất em từ đã thật lâu

Ta không gỗ đá vẫn vô tư
Mà viết gì đây? biết nói gì?
Trang giấy bỗng dưng dòng lệ ướt
Những con đê lạ bước anh đi

Thăm thẳm đường xa một lối tà
Mưa như lất phất những dàn dưa (1)
Bỗng nghe ma khóc đêm khuya lạnh
Câu chuyện liêu trai cũng chẳng xưa.

[1] Lấy ý mấy câu đề từ Liêu Trai Chí Dị của Vương Ngũ Dương
Cô thị ngôn chi cô thính chi
Dậu bằng qua giá vũ như ty.



ĐI NGANG QUA NGHĨA TRANG QUÂN ĐỘI BIÊN HÒA


Đoàn tù di chuyển trên xa lộ
Ngang chỗ ngày xưa đất nghĩa trang
Giọt lệ lăn dài trên khóe mắt
Khi nhìn pho tượng đổ nằm ngang

Ôi những anh linh lính cộng hòa
Hy sinh xương máu giữ quê cha
Cộng quân xâm lược từ phương bắc
Gieo rắc đau thương tủi nước nhà

Thương Tiếc tượng nay đã chẳng còn
Ngồi đây gác súng nhớ quê hương
Bao nhiêu người chết thành vô ích
Cộng sản làm cho tan nước non?

Ôi những bạn bè chết ở đây
Tủi cho thân phận đã bao ngày
Nằm trong lạnh lẽo quan tài đó
Có khóc thầm trong giấc ngủ say?

Hãy cố bình yên một giấc buồn
Nghìn năm chiến sĩ vẫn luôn còn
Chết cho tổ quốc bao thu trước
Và giữ cho lòng mãi sắt son

VŨ UYÊN GIANG
Tháng 6 năm 1978 khi bị giải giao từ Long Giao về Hốc Môn đi ngang Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa nhìn thấy pho tượng Thương Tiếc bị kéo đổ


VỀ LẠI HỐC MÔN

Trở lại Hốc Môn lúc nửa đêm
Bịt bùng xe chạy thấy buồn thêm
Bao năm bị nhốt trong tù ngục
Vì lũ cộng nô rất dã man

Ta lại đi qua giữa Sài gòn
Những con đường cũ đã thay tên
Ngọn đèn hiu hắt trông vàng vọt
Cảnh vật đìu hiu dưới ánh đèn

Ta đã về ngang những phố xưa
Một đêm lướt thướt dưới cơn mưa
Trong lòng ôm biết bao sấu hận
Tùi nhục niềm đau cũng mấy mùa?

Trên xe chật ních những tù nhân
Lầm lũi đi trong tiếng khóc thầm
Thành phố im lìm trong giấc ngủ
Đoàn tù di chuyển mưa lâm râm

Thất trận nhưng ta vẫn sống hùng
Trong tay giặc cộng kiếp lao lung
Hiên ngang ngửa mặt ta không thẹn
Giữ vững niềm tin trận cuối cùng.

VŨ UYÊN GIANG
Tháng 6 năm 1978, trên đường di chuyển về trại giam Hốc Môn


GỬI DƯƠNG CỰ

(Nhái theo thơ Nguyễn Khuyến gửi Dương Khuê)

Tớ mới nghe tin bác bị vồ
Còng tay gông cổ, nhốt ca xô (1)
Thương thay quan bác thân còm cõi
Phải chịu đòn đau của rợ hồ

VŨ UYÊN GIANG
Trại giam Suối Máu, Biên Hòa 1979
(1) cachot (tiếng Pháp): phòng biệt giam
Dương Cự, Ủy viên Chính phũ Tòa án Quân sự ở Vùng 4 là anh của Dương Kiền và Dương Phục. Dương Cự đã qua đời ở Saigon tháng 4 năm 2007


BÙI GIÁNG

(Để nhớ lúc gặp Bùi Giáng ở Phú Nhuận 1981)


Người tỉnh hay điên giữa hỗn mang?
Thênh thang trời đất cõi vô thường
Chung quanh cũng chỉ là hư ảo
Tiền kiếp nào xưa như giọt sương?

Ta tỉnh, người điên lúc đổi đời
Ta tìm những nẻo rất chông gai
Trong, ngoài – Hai chỗ nhà tù cả
Người chửi huênh hoang thật thảnh thơi

Xã hội đảo điên, người vẫn giàu
Trên mình dăm bẩy bộ thanh cao
Còn ta rách nát như xơ mướp
Nhờ đảng cho nên ta giống nhau.


VŨ UYÊN GIANG
(Viết năm 1981 khi ngồi uống cà phê với Bùi Giáng trên đường Thích Quảng Đức, Phú Nhuận – Sài gòn)


HÀ THƯỢNG NHÂN

họa bài thơ BÙI GIÁNG


Trời mang mang đất mang mang
Đã trót sinh ông cũng bất thường
Châu chấu chuồn chuồn bay lả tả
Cuộc đời mờ ảo những làn sương

Ăn uống vui chơi với cuộc đời
Hoa hồng như máu, nhọn như gai
Áo trăm miếng vá, người rong ruổi
Trong cõi nhân sinh tự thảnh thơi

Giáng với ông coi bộ chẳng giàu
Chẳng điên, chẳng thấp, chẳng hề cao
Bỗng dưng hai kẻ thành vô sản
Giữa ngã ba đường gặp gỡ nhau

HÀ THƯỢNG NHÂN
13-9-06


PHẠM THIÊN THƯ


Bởi chưng xưa “gã từ quan”
Ngày nay ngồi ngắm hoa vàng mung lung
Xót trang bi sử ngượng ngùng
Thất phu thẹn với tang bồng nổi trôi
Mấy năm vật đổi sao dời
Hoài thân lận đận, vẫn đời hoang mang
Trước sân dăm cánh hoa vàng
Ngậm ngùi thế sự ngàn hàng lệ sa.


VŨ UYÊN GIANG
(1981 – khi ngồi uống café với Phạm Thiên Thư cùng Hoàng Văn Giang ở quán của Thư góc đường Yên Đổ - Hai Bà Trưng)


BÀI HỌA CỦA CỤ HÀ THƯỢNG NHÂN


PHẠM THIÊN THƯ

Ngày xưa đã chẳng làm quan
Bây giờ nhìn cánh mai vàng lao lung
Hở môi thì cũng ngại ngùng
Cầm như những ngọn cỏ bồng đang trôi
Lạ chưa vật đổi sao dời
Tiếng thơ uất nghẹn, tiếng đời mang mang
Mùa hè sao lá úa vàng
Lời buồn bỗng thấy mấy hàng mưa sa.

HÀ THƯỢNG NHÂN
May 4th, 2007


TỰ TRÁCH


Cũng bởi vì ta quá nhát gan
Tháng tư ngày ấy vội tan hàng
Đem đời giam hãm trong tù ngục
Cuộc chiến sau cùng bỏ dở dang

Vang súng đạn thù trên trận tuyến
Sa trường binh lửa nặng oằn vai
Thất phu sinh giữa thời chinh chiến
Trách nhiệm không tròn, tủi kiếp trai

Tóc bạc ôm hờn nơi viễn xứ
Bại binh vong quốc khóc thương thân
Tự trách mình làm cho mất nước
Lưu đầy xứ lạ đến bao năm???

VŨ UYÊN GIANG
Chicago, 30/4/1986


BÀI HỌA CỦA HÀ THƯỢNG NHÂN

TỰ TRÁCH

Cho dẫu là người lớn mật gan
Khi ông Tổng thống gọi tan hàng
Làm sao tránh khỏi nơi tù ngục
Để cuộc đời này luống dở dang

Áo trận, giày sô trên tuyến lửa
Dù cho nhiệm vụ nặng đôi vai
Trót sinh ra giữa thời chinh chiến
Có lẽ nào đâu nhụt chí trai

Hôm nay nâng chén ngoài biên cảnh
Ngâm ngùi thương mãi kiếp vong thân
Sao lại làm tên thân mất nước
Sống thừa sót lại phỏng bao năm?

HÀ THƯỢNG NHÂN
29/3/2007


BÊN HỒ MICHIGAN

Lao xao vạt nước ven hồ
Buồn đời tị nạn, sóng xô bồng bềnh
Tủi thân chiếc lá lênh đênh
Mang thân biệt xứ buồn tênh quê người
Nghe trong tâm sự đầy vơi
Niềm đau ngày cũ một đời chẳng quên.

VŨ UYÊN GIANG
Chicago, Tháng 7/1987


KHOẢNG TRỜI RIÊNG
Tặng Tường Vi khi nhận tập thơ Khoảng Trời Riêng


Dường như thi tứ trong thơ
Khiến hồn ta cũng bơ vơ nỗi niềm
Tường Vi với Khoảng Trời Riêng
Cho ta sống lại chút tiền căn xưa.

VŨ UYÊN GIANG
Charlotte, North Carolina 6/1999



ĐẾN CHÙA NGHE KINH


Lên chùa thơm ngát khói trầm hương
Khẽ lắng hồn theo tiếng mõ chuông
Hồi hướng giác thân về cõi Phật
Nghe kinh khai ngộ mộng vô thường

VŨ UYÊN GIANG
Charlotte, NC 2000


THIỀN


Thi nhân nhắm mắt tọa thiền
Thân tâm an lạc giữa miền hư vô
Bỗng dưng tìm thấy bến bờ
Phù sinh mộng dữ cơ hồ bay xa

VŨ UYÊN GIANG
Charlotte, NC 2000


HỒN AI?


Tường xưa đá phủ rêu phong
Khép trang huyết sử hận lòng thiên thu
Phố xưa vẫn kín sương mù
Hồn ai phảng phất bên bờ tường hoang???

VŨ UYÊN GIANG
(Cảm tác khi xem bức hình cổng BTL Quân Đoàn II ở Pleiku – viết tại Charlotte, NC năm 2000)

BÀI HỌA
CỦA CỤ HÀ THƯỢNG NHÂN


Mùa xuân xanh một rừng phong
Mà trang sử hận nỗi lòng ngàn thu
Nhìn ra sương khói mịt mù
Non sông còn lại đôi bờ hồng hoang

HÀ THƯỢNG NHÂN
29/3/2007

HẠNH PHÚC HOANG ĐƯỜNG 2



Ta đi thầm thũi trong đêm vắng
Heo hút đèn khuya mất dấu người
Tìm gót chân xưa mờ lối cũ
Vết đời qua một nhánh chia phôi

Là thế người đi xa tít tắp
Nghìn năm ta mỏi mắt trông theo
Dường như sâu thẳm từ vô cực
Tiếng vọng nào nghe đã nghẹn ngào?

Người đi! Thôi hết người đi khuất
Ta chẳng còn chi để nhớ mong
Miệng cười nụ héo tim đau ngất
Hồn chết bao phen nỗi hận lòng?

Hạnh phúc hoang đường như gió mây
Bốn phương tám hướng mịt mù bay
Bơ vơ giữa nẻo đời vô định
Tóc trắng vui cùng men rượu cay

Nhân thế muôn đời vẫn dối gian
Mềm môi ta cạn chén hồ trường
Cuộc đời như một cơn hư ảo
Được, mất, hơn, thua cũng lẽ thường

Người hãy vui và hãy cứ đi
Ta không tiếc nuối bận tâm gì
Mai này trong biển đời huyên náo
Người có bao giờ lệ ướt mi?

VŨ UYÊN GIANG
Evanston, May 2004


BÀI HỌA CỦA CỤ HÀ THƯỢNG NHÂN


HẠNH PHÚC HOANG ĐƯỜNG

Lầm lì đi mãi trong đêm vắng
Heo hút đèn khuya dõi bóng người
Trường cũ giờ ta quay trở lại
Hình như tất cả đã pha phôi

Lòng cũ hình như hoang vắng quá
Ta đi. Mắt chỉ ngó chừng theo
Phải vì ngõ cũ bây giờ lạ
Hoa bưởi hoa cau vẫn ngạt ngào

Ta về giáng cũ hình như khuất
Bỗng hiện hình trong nỗi nhớ mong
Bỗng đã nhớ thương về chất ngất
Vẫn nghe chìm nổi đắng cay lòng

Nhìn lên trời vẫn trắng làn mây
Ở góc Hồ Gươm áo trắng bay
Có phải mùa thu còn vẫn đó?
Nhớ sao mắt bỗng thấy cay cay

Tháng năm còn lại khoảng không gian
Tiếng trống ngày xưa lúc bãi trường
Tiếng guốc ngày xưa hè phố vắng
Ta nghe tất cả chẳng bình thường

Có phải đường này ta đã đi
Ta đi. Ngày tháng chẳng còn gì!
Ta về. Trơ lại cây bàng cũ
Không khóc mà sao ướt cả mi?

HÀ THƯỢNG NHÂN
San Jose, tháng 4 năm 2008


NHÁI TỪ ĐỘ VỀ ĐÂY


Từ độ về đây sống rất nghèo
Bạn bè chỉ có gió trăng theo
Những thằng bất nghĩa xin đừng tới
Hãy để thềm ta xanh sắc rêu
(Từ Độ Về Đây - Nguyễn Bính)



Từ độ về đây sống vắng người
Bạn bè rặt những lũ đười ươi
Chập chùng phố núi leo lên xuống
Ma chẳng ra ma, chẳng giống người.


VŨ UYÊN GIANG
Castro Valley Tháng 5/2006


BÁ NHA - TỬ KỲ


Bá Nha ngồi nhớ lại Tử Kỳ
Nhậu say bí tỉ ngủ li bì
Tai trâu đàn gẩy cho ai nữa
Chuếnh choáng làm thêm hơn chục ly.

Bằng hữu ngày này đâu vắng cả?
Chiếc đàn trơ trọi để làm chi
Liệng đi! Ta hãy say cái đã
Tri kỷ đời nay có ích gì?

VŨ UYÊN GIANG
5/2006


HÀNH GIẢ


Hành giả một hôm lần xuống núi
Đi tìm hành thiệt nhậu khơi khơi
Mải vui chơi gặp cô hành hạ
Mất hết hành trang gánh nửa đời.

VŨ UYÊN GIANG
5/2006



BÀI HỌA CỦA
CỤ HÀ THƯỢNG NHÂN


Ai hành mà giả hờn sông núi!
Có thiệt thòi chi mấy dặm khơi?
Hành hạ nhau hoài trong kiếp sống
Hành trang còn lại góp cho đời

HÀ THƯỢNG NHÂN


KIỀU THỜI NAY


Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
(Nguyễn Du)

Kiều xưa phải bán thân mình
Chuộc cha về lại tư dinh đề huề
Cuộc đời trôi dạt ê chề
Buôn hương bán phấn bề hề xác thân
Kiều nay vênh váo vô ngần
Thay chồng xoành xoạch có cần sợ chi
Chửi cha mắng mẹ ra gì
Dối gian lươn lẹo chẳng bì với ai.
Nói chi đến bước đường dài
Ở thì ăn xổi cũng tài liền khôn.

VŨ UYÊN GIANG
5/2006


HOÀI BÃO


Ta mang hoài bão trên vai
Nặng thân tị nạn, tủi đời lưu vong
Thù xưa ấn dấu trong lòng
Nhục tràn sông bể, xuôi giòng thời gian
Nửa khuya thức giấc bàng hoàng
Niềm đau thất trận hàng hàng lệ rơi.

VŨ UYÊN GIANG
Chicago, 1986


BÀI HOẠ CỦA
CỤ HÀ THƯỢNG NHÂN:

Giang sơn gánh đã oằn vai
Xót xa chưa nhỉ lẽ đời hưng vong?
Quê hương còn một tấm lòng
Cúi đầu lệ rớt giữa giòng thế gian
Ơ hay! Sao bỗng bàng hoàng
Nhìn cờ rũ thấy hàng hàng mưa rơi.

HÀ THƯỢNG NHÂN
11/10/2006


HỌA BÀI HOÀI BÃO

giang sơn một gánh trên vai
làm gì mà tủi cuộc đời lưu vong
nhìn nhau chừng xót xa lòng
nghoảnh đi nghoảnh lại ngược dòng thời gian
là ta! thôi bổng bàng hoàng
viết gì, cũng lại mấy hàng mưa sa.

HÀ THƯỢNG NHÂN
12/10/2006


BƯỚC CHÂN HOANG
TRÊN THÀNH PHỐ CŨ


Anh đã về đây giữa phố xưa
Lòng nghe lạ lẫm đến không ngờ
Sàigòn ngày cũ chừng xa quá
Dâu bể cơ hồ như giấc mơ

Phố xá đông người chen bước chân
Ngỡ như Lưu Nguyễn lại trần gian
Loanh quanh tìm dấu chân ngày cũ
Lạc lõng bên đời chẳng nét quen.

"Nắng Sàigòn anh đi mà quá nóng
Bởi vì em không áo luạ Hà Đông" (1)
Bởi vì em mặc áo hở lưng trần
Nên đã nóng lại càng thêm quá nóng.

Đã mất Sàigòn dáng nét quen
Nhìn quanh bao ánh mắt ưu phiền
Phất phơ con phố hoang mang sống
U uất chờ mong lúc biến thiên

Cảnh cũ ngày xưa cũng ngậm ngùi
Người muôn năm trước đã xa xôi.
Không tìm thấy lá me đường nhỏ
Nhưng hạt mưa trầm luân vẫn rơi.

VŨ UYÊN GIANG
Saigon, Tháng 9 năm 2005
(1) Nhại thơ Nguyên Sa:
"Nắng Sàigòn anh đi mà chợt mát.
Bởi vì em mặc áo luạ Hà Đông"

BÀI HỌA CỦA HÀ THƯỢNG NHÂN

Đi trong thành phố của ngày xưa
Mình thật không tin, thật chẳng ngờ
Mới biết Sàigòn thay đổi quá
Bao nhiêu dâu bể, một cơn mơ

Triệu triệu xe qua, triệu gót chân
Thôi thì xuôi ngược giữa nhân gian
Làm sao tìm lại ngày xưa cũ
Những bạn bè thân, những bạn quen.

Sàigon lúc nào mà chẳng nóng
Dẫu em có mặc lụa Hà Đông
Dẫu em có hở cả lưng trần
Nắng lửa Sàigon thêm sức nóng

Saigon không có nét thân quen
Em chẳng làm sao cũng muộn phiền
Đất nước từ ngày thay đổi chủ
Thôi thì tất cả cũng do thiên

Ta bước bâng khuâng, bước ngậm ngùi
Ngày xưa mới đó đã xa xôi
Lá me dẫu rụng trên đường cũ
Chẳng thấy mưa mà thấy lệ rơi

HÀ THƯỢNG NHÂN 29/3/2007


UỐNG RƯỢU VỚI BẰNG HỮU


(Tặng Trần Tuấn Kiệt, Vương Tân, Tô Duy Khiêm, Trần Ngọc Tự, Bùi Đức Dung, Kha Thùy Châu, Phổ Đức, Nguyễn Thụy Long, Hoàng Hương Trang, Hoàng Vũ Đông Sơn để nhớ lúc ngồi uống rượu với bằng hữu ở Sàigòn Tháng 4/2006)


Bằng hữu cùng ta chưa đủ say
Mềm môi rót mãi những chung đầy
Mai này ly biệt về phương khác
Biết có còn ai để uống say?

Bằng hữu ngồi đây nói chuyện xưa
Chuyện xưa giờ cũng đã dư thừa
Chuyện đời thay đổi như cơm áo
Nào có khác gì buổi chợ trưa.

Bằng hữu cùng ta chia nỗi đau
Nỗi đau nào cũng nhuốm u sầu
Mặc cho dâu bể thân vong kiếp
Ai nỡ nào khơi thêm nỗi đau?

Giữa quán đông người nói rất hăng
Bạn ta vung vít chửi lung tung
Rồi cười khanh khách như hào kiệt
Một thuở tung hoành khắp núi sông

Hào kiệt tứ phương đầu đã bạc
Ngồi đây ôn lại chuyện thu phong
Rồi mai tiễn biệt nhau lần cuối
Ai kẻ mài gươm ở cuối đường?

VŨ UYÊN GIANG
Sàigòn, Tháng 4/2006


BÀI HỌA CỦA
CỤ HÀ THƯỢNG NHÂN:


Ta lên An Hòa vui tiệc say
Chưa đưa tay rót đã ly đầy
Ngờ đâu vào lúc chiều xuân muộn
Tóc bạc bên người rộn rã say

Cứ tưởng mình còn như lúc xưa
Lưu vong vẫn tưởng sống như thừa
Ngờ đâu bằng hữu trong thiên hạ
Thừa rượu còn say mãi buổi trưa

Cũng cho quên hết những niềm đau
Mà vẫn chênh vênh một nỗi sầu
Ta thấy trên tường trăm bức ảnh
Chữ Tâm chữ Nhẫn ngậm ngùi đau

Họ Phan bừng rượu nói hung hăng
Thơ rải mười phương ném tứ tung
Cứ tưởng bạn mình hào kiệt hết
Ngày mai về dựng lại non sông

Khi nhìn nhau thấy đầu phơ bạc
Chẳng rửa tay mà kiếm đã phong
Chén rượu rót đầy không kịp uống
Đã nghe mù mịt những con đường

HÀ THƯỢNG NHÂN
(29/3/2007 – Uống rượu ở An Hòa, San Leandro
với Đông Anh, Phan Bá Thụy Dương, Hải Bằng
và Vũ Uyên Giang)


Cảm đề khi đọc thơ Chu Vương Miện:

ĐẤT/ TRỜI

Trời cũng không mà đất cũng không
Vầng trăng kẹt mãi ở đầu non
Mây cũng theo nhau về núi ấp
Thân ta [còn đó mất hay còn]

m.loan hoa sử (một bút hiệu khác của Chu Vương Miện)



SẮC - KHÔNG

Sắc tức là không, ta cũng không
Vô thường sống gửi giữa trần gian
Rồi cũng theo nhau về cát bụi
Cớ sao lại hỏi mất hay còn??? (1)

VŨ UYÊN GIANG
Tháng 1/2006
(1) Nhại thơ Thị Lộ trả lời Nguyễn Trãi:
Can chi ông hỏi hết hay còn?


NHÁI THƠ THÂM TÂM


Đưa người ta không đưa qua sông
Sao nghe tiếng sóng ở trong lòng
Bóng chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
(Tống Biệt Hành - thơ Thâm Tâm)



Đưa người ta đã đưa qua sông
Sao ngươi giữ mãi ở trong lòng
Đưa người ta đã quên người ấy (1)
Ngươi vẫn còn mơ ước viển vông?

Người ở đầu sông, ta cuối sông (2)
Đôi ta hai hướng, chẳng chung lòng
Thề nguyền năm cũ đành hư ảo.
Gượng ép làm chi cũng uổng công?

Cứ ngỡ tình kia là rất thật
Nào ngờ cũng chỉ dối gian thôi
Tình khi không bỗng thành ly biệt
Ước hẹn trôi vèo trên chót môi.

Người đi? Ừ nhỉ! Người đi thật.
Ta đứng nhìn theo cơn gió lay
Không áo bay theo chiều nắng tắt
Chỉ còn ngầy ngật chút men cay.

(Tháng 5/2006)
(1) Một nhà sư đi ngang vũng lội, thấy 1 thiếu nữ không dám bước qua nên đã cõng cô qua chỗ lội. Người sư đệ đi theo cứ cằn nhằn nhà sư về việc phạm giới cõng người nữ suốt đường về đến tận cửa chùa. Vị sư huynh mới bảo: "Ta đã bỏ cô ta ở chỗ vũng lội, mà đệ cứ mang theo về tận đến chùa?"
(2) Mượn ý Thơ Đường
"Quân bộ Tương Giang đầu
Thiếp tại Tương Giang vĩ
Tương tư bất tương kiến
Đồng ẩm Tương Giang thủy"



NGỘ 1

Ta ngỡ đời vui lắm
Ghé lại vài phút thăm
Ngờ đâu là cõi tạm
Thì ra ta đã lầm

NGỘ 2

Cuộc đời kia vừa có
Thoắt lại đã thành không
Ôi! Trầm luân bể khổ
Ngộ ra chỉ vô thường


NGỘ 3

Ta ngỡ đời vui lắm
Nên vướng vòng lợi danh
Ngờ đâu là cõi tạm
Thôi chia tay. Cũng đành !

VŨ UYÊN GIANG
San Leandro - 5/2006


SINH TỬ - TỬ SINH


Khổng Tử một hôm bảo Khổng Sinh
Dù Khâu hay vá vẫn Sân Trình (1)
So đo hang, Lỗ đời thua thiệt
Than khóc làm chi cuộc tử sinh

Kẻ trước, người sau không giống nhau
Ngươi Tương Giang vĩ ngóng giang đầu
Muôn năm hoá đá nàng Tô thị
Một thoáng thời gian như bóng câu.

Chiến Quốc, Xuân Thu chẳng thấy gì
Công hầu khanh tướng có còn chi
Xuôi tay nhắm mắt thôi là hết
Được mất, hơn thua cũng biệt ly

Mới hay sinh tử đã an bài
Trốn tránh làm chi chẳng sót ai
Định phận sống sao không tủi hổ
Dọc ngang trời đất thoả đời trai

VŨ UYÊN GIANG
Jun.1st, 2006
(1) Khổng Tử tự Khổng Khâu người nước Lỗ



BÀI HỌA CỦA CỤ HÀ THƯỢNG NHÂN

Lẽ nào nôn nả kiếp hư sinh
Ai hỏi mà ta dám đệ trình
Dẫu biết có không là huyễn ảo
Trăm năm thôi cũng lại vừa sinh

Trăm năm nào có khác gì nhau
Vằng vặc trăng soi trắng mái đầu
Hòn đá Vọng phu còn mãi đó
Thuyền nan vài lá một ông câu

Ta thấy gì đây? Biết những gì?
Trăm kinh, ngàn truyện có là chi
Nghĩ khi sum họp, khi chia cách
Có hợp thì rồi phải có ly

Cho nên tất cả đã an bài
Sinh tử trời không ghét một ai
Ta vẫn ung dung thay áo rộng
Vui cùng trăng gió một đời trai

HÀ THƯỢNG NHÂN
San Jose, 29/3/2007



HÀNH TRỜI TÂY

(NHÁI HÀNH PHƯƠNG NAM)

Đôi ta lưu lạc phương Nam này
Trải mấy mùa qua én nhạn bay
Xuân đến khắp trời hoa rượu nở
Riêng ta với ngươi buồn vậy thay
(Hành Phương Nam - Nguyễn Bính)



Hành lá, hành hoa, cả ruộng hành
Hành Nam, hành Bắc vẫn màu xanh
Cớ chi đày đoạ nhau hoài thế?
Tan nát đời nhau mấy kiếp hành

Bọn ta lưu lạc tận Hoa kỳ
Đã mấy mùa xuân sống biệt ly
Đất lạnh ngươi ôm sầu viễn xứ
Trời Tây ta chí nhỏ - cu ly.

Đếm tháng ngày qua trong chén rượu
Ly nào cũng nốc vẫn không say
Men tình uống cạn từ hôm trước
Là hết, thôi đành gửi gió mây

Chí lớn ngươi sa vòng lừa đảo
Ta nhìn nhân thế trắng đôi tay
Niềm tin đốt sạch ngay ngày ấy
Hoài bão quay về như khói bay

Hỡi ơi một kiếp đời lưu lạc
Quê cũ vẫn chìm trong đắng cay
Nhắm mắt buông xuôi thân cát bụi
Mơ hồ nguồn cội cũng buồn lây.

Bao giờ một lũ cuồng ngu dại
Tỉnh giấc si mê hoang tưởng kia
Ngày ấy nhân gian bừng sống lại
Một trời vang vọng khúc hoan ca.

Ta với ngươi mừng vui chén rượu
Ly đầy không cạn hết niềm vui
Thế giới vỡ oà trong tiếng khóc
Chẳng còn ly biệt lệ đầy vơi.

VŨ UYÊN GIANG
San Leandro, CA Tháng 8 năm 2006


HỌA BÀI HÀNH TRỜI TÂY
CỦA VŨ UYÊN GIANG

Gần Tết đọc Hành, viết bài hành
Nhìn ra lá cỏ vẫn màu xanh
Ngày xưa Nguyễn Bính ba ly rượu
Còn lại ngày sau mấy khúc hành

Đánh nhau chưa chết cũng là kỳ
Chẳng ốm không đau cũng cách ly
Trên đất tạm dung ngồi nhớ lại
Cũng may chưa phải làm cu ly

Cũng may tuổi già kiêng cữ rượu
Không rượu uống trà mà sao say
Chim nhạn, chim hồng về phương bắc
Ta chẳng là chim nên chửa bay

Chưa bay không rượu sao lảo đảo
Cuối năm chỉ biết thõng đôi tay
Niềm tin dẫu chẳng bao giờ cạn
Vẫn thấy mơ hồ như bóng mây

Chẳng biết mình khôn hay vẫn dại
Núi sông vẫn đó vẫn còn kia
Ta nhìn sông núi mà đau đớn
Tuổi trẻ chưa tàn một khúc ca

Ta tiếc không cùng vui chén rượu
Bên người bát ngát một cơn vui
Mới hay chữ nghĩa còn duyên nợ
Tấc lòng mê đắm có pha phôi?

HÀ THƯỢNG NHÂN
San Jose, Tháng 2/2007

No comments:

Post a Comment